Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Vận dụng quy luật lượng chất vào đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay

Chương 1
Phần mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang bước vào thời đại của "làn sóng văn minh thứ ba", thời đại
của sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức; sự năng động, tích cực, chủ
động, sáng tạo của mỗi người có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
xã hội. Việc đào tạo nguồn nhân lực giàu khả năng sáng tạo, nắm bắt được công
nghệ mới đang là vấn đề mà tất cả các nước trên thế giới quan tâm.
Hơn nữa, đây là thời kì mà nước ta đang thực hiện CNH, HĐH đất nước
với mục tiêu đề ra đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Quá
trình thực hiện CNH, HĐH là quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế và dần thay đổi
nguồn nhân lực. Hơn bao giờ hết, sự nghiệp giáo dục đào tạo cần phải được coi
trọng hơn. Chính vì vậy, phương pháp dạy học cần được đổi mới, đáp ứng yêu cầu
của thời kì mở cửa và hội nhập, nhằm rút ngắn khoảng cách giữa nước ta với các
nước bạn trên thế giới.
Nhận thức được tầm quan trọng và cần thiết đó, Đảng và Nhà nước ta trong
Nghị quyết TW 2 khóa VII và Đại hội IX đã đề ra các nhiệm vụ cho ngành giáo
dục. Trong đó nhấn mạnh việc "tập trung chỉ đạo đổi mới nội dung,chương trình,
phương pháp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, sử dụng công nghệ thông
tin tiếp cận với trình độ tiên tiến của khu vực và quốc tế, gắn bó hơn với cuộc sống
xã hội, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương". Trong
những năm vừa qua, chúng ta đã cố gắng thực hiện những nhiệm vụ đó, và gặt hái
những thành công nhưng cũng còn không ít khó khăn, bất cập, đặc biệt là phong
trào đổi mới PPDH. Vấn đề đổi mới PPDH được đặt ra và được thực hiện sôi nổi ở
các trường học, các cơ sở đào tạo, bắt đầu từ việc chống "dạy chay học chay", chống
cách dạy "đọc chép", thay vào đó là việc xây dựng cách dạy "lấy học sinh làm trung
1
tâm" . . . và hiện nay là phương thức đưa các phương tiện hiện đại vào dạy học đang
được áp dụng. Nhiều cuộc hội thảo về đổi mới PPDH đã diễn ra ở các trường học,
các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các trường sư phạm. Tuy nhiên, hiệu quả giáo dục cho
đến nay vẫn còn non kém, phương pháp truyền thống vẫn là cơ bản. Tuy đổi mới
PPDH là vấn đề không mới nhưng vẫn mang tính thời sự, đòi hỏi các cấp, các sở
đào tạo và mọi người có sự quan tâm chính đáng.
Xuất phát từ thực trạng chung của xã hội, của trường sở tại và tính cấp
thiết trong công tác giảng dạy của bản thân, tôi chọn đề tài này với mong muốn
phát huy vai trò triết học đối với đời sống xã hội, cụ thể đề tài đó là "Vận dụng
quy luật lượng - chất trong công tác đổi mới phương pháp dạy học ở nước
ta hiện nay". Thiết nghĩ, đề tài này có ý nghĩa thiết thực đối với chúng ta trong
bối cảnh ngành giáo dục hiện nay đang ra sức tập trung thay đổi phương pháp dạy
và học để đáp ứng cho xã hội.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Dưới ánh sáng của triết học duy vật biện chứng, nhận thức lại yêu cầu, định
hướng của công tác đổi mới PPDH, đánh giá thực trạng đổi mới PPDH trong những
năm qua. Từ đó đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới PPDH ở nước
ta nhằm đáp ứng về mọi mặt nguồn nhân lực cho xã hội.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tiểu luận này tôi chủ yếu sử dụng phép biện chứng duy vật.
Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp cụ thể như sau:
• Phương pháp phân tích.
• Phương pháp so sánh, chứng minh.
• Phương pháp khái quát, tổng hợp.
1.4 Giới hạn của bài tiểu luận
Đây là một bài tiểu luận nhỏ nên chưa thể hiện được đầy đủ nội dung một
cách sâu sắc, tổng quát nhưng nó cũng một phần nào đó cho chúng ra thấy được
công tác đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta hiện nay.
2
Chương 2
Phần nội dung
2.1 Tìm hiểu về quy luật
2.1.1 Khái niệm về quy luật
Trong đời sống của con người, các hiện tượng tự nhiên và xã hội diễn ra
một cách muôn màu muôn vẽ, dần dần con người nhận thức được tính trật tự và
mối liên hệ có tính lặp đi lặp lại của các hiện tượng. Từ đó, hình thành nên khái
niệm "quy luật". Quy luật là một phạm trù dùng để chỉ mối liên hệ khách quan,
bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc
tính bên trong một sự vật nào đó, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Các quy luật của tự nhiên và quy luật xã hội cũng như tư duy con người
đều mang tính khách quan chứ không mang tính chủ quan. Bởi vậy, con người chỉ
nhận thức và vận dụng nó vào thực tiễn. Còn các quy luật được phản ánh trong
khoa học không phải do con người tùy ý sáng tạo ra mà nó được phát hiện ra chính
nhờ sự phản ánh của các quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội cũng như tư duy
của con người.
2.1.2 Phân loại quy luật
Các quy luật hết sức đa dạng và phong phú. Chúng khác nhau về mức độ
phổ biến, về phạm vi bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình
vận động và phát triển của sự vật. Do vậy, việc phân loại quy luật hết sức cần thiết
để nhận thức và vận dụng một cách hiệu quả vào hoạt động thực tiễn của con người.
Theo lĩnh vực tác động ta có thể phân chia quy luật thành ba dạng là quy
luật tự nhiên, quy luật xã hội và quy luật tư duy. Quy luật tự nhiên tồn tại khách
quan trong tự nhiên, trong cơ thể con người, nhưng không phụ thuộc vào ý thức của
3
con người. Quy luật xã hội là quy luật hoạt động của chính con người có ý thức,
song không phụ thuộc vào ý thức của con người. Quy luật tư duy là quy luật nội tại
giữa các khái niệm, phán đoán để biểu đạt của con người về thế giới khách quan.
Theo mức độ phổ biến ta có thể phân chia quy luật thành ba dạng là quy luật riêng,
quy luật chung và quy luật phổ biến. Quy luật riêng là những quy luật chỉ tác động
trong môt phạm vi nhất định của các sự vật, hiện tượng cùng loại. Quy luật chung
là những quy luật mà phạm vi tác động rộng hơn quy luật riêng như quy luật bảo
toàn năng lượng, bảo toàn khối lượng tác động trong cả quá trình vận động cơ giới,
vận động hoá học, vận động sinh học. Quy luật phổ biến là những quy luật tác động
trong cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đây chính là những quy luật của phép biện chứng duy vật. Với tư cách là
một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến, tác
động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội va tư duy của con người.
2.2 Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những thay đổi về chất và ngược lại
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm hai mặt chất và lượng. Hai mặt
đó thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng. Bởi vậy, trong quá trình
phát triển của triết học đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm chất,
lượng cũng như quan hệ giữa chúng. Tới khi phép duy vật biện chứng ra đời thì mới
có quan điểm đúng đắn về khái niệm chất và lượng.
2.2.1 Khái niệm về chất
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn
có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó
chứ không phải là cái khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên
chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác; nhờ đó con
người mới có thể phân biệt được các sự vật, hiện tượng. Thuộc tính của sự vật là
những tính chất, những trại thái, những yếu tố cấu thành sự vật, .Đó là những cái
vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra và hình thành trong sự vận động và
phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ
được bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại của nó với các cơ quan xúc giác của
4
chúng ta.
Mỗi sự vật, hiện tượng có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện
một chất của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất của sự vật được
biểu hiện qua các thuộc tính của nó nhưng không phải bất kỳ thuộc tính nào cũng
biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính
không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự
vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi
nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc
tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy,
sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản chỉ
mang tính tương đối.
Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của
sự vật. Từ đó, có thể thấy sự thay đổi về chất của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay
đổi các yếu tố tạo thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu
tố ấy.
2.2.2 Khái niệm về lượng
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự
vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng
như các thuộc tính của sự vật.
Lượng là cái vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật
không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Đồng thời lượng tồn tại song song
với chất. Do đó, lượng của sự vật cũng có tính khách quan như chất của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít,
quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm, .nên sự
phân biệt giữa chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ
thuộc vào từng mối quan hệ cụ thể xác định. Có những tính quy định trong mối
quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị số lượng
của sự vật và ngược lại.
5
2.2.3 Khái niệm về độ, điểm nút, bước nhảy
Đối với quy luật lượng - chất, ngoài hai phạm trù lượng và chất thì các
phạm trù độ, điểm nút và bước nhảy hết sức cần thiết. Bởi đây là ba yếu tố thể
hiện được mối liên hệ biện chứng giữa lượng và chất.
• Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về
lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Sự vật vẫn là nó,
mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một độ thích hợp khi lượng biến đổi
vượt quá giới hạn độ thì sự vật không còn là nó.
Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động qua lại
lẫn nhau làm cho sự vật vận động. Mọi sự thay đổi về lượng đều có ảnh hưởng
đến trạng thái chất của sự vật, nhưng không phải những thay đổi về lượng nào
cũng dẫn đến thay đổi về chất. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng
đạt tới mức phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật mới thay đổi, sự vật chuyển thành
sự vật khác.
• Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về
lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Tập hợp những điểm nút gọi là
đường nút.
• Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước
nhảy. Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất
của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Ta có thể phân
chia bước nhảy thành hai loại như sau:
– Bước nhảy đột biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắn làm thay đổi
bản chất của sự vật. Bước nhảy này diễn ra bằng một sự bùng nổ mãnh
liệt. Chẳng hạn, như cuộc cách mạng tháng 10 Nga là một bước nhảy đột
biến mang tính chất lịch sử.
– Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện bằng việc loại bỏ dần
những yếu tố, những bộ phận chất cũ xảy ra trong một thời gian dài mới
loại bỏ hoàn toàn chất cũ thành chất mới.
2.2.4 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng - chất
Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất
giữa chất và lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở
6
thành cái khác. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn
định, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ
cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về
lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi
nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ khi nào lượng
biến đổi đến một giới hạn nhất định
1
thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay
đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như vậy, khi lựợng biến đổi đến điểm
nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ, sự vật mới ra đời
thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại tiếp tục biến đổi đến
điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển
của sự vật diễn ra theo cách thức từ những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay
đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm
tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển.
Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không
tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện
ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra một lượng mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất
mới giữa chất là lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ
và mức độ phát triển mới của lượng.
2.2.5 Ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại, có thể rút ra những kết luận có ý nghĩa sau:
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết tích lũy về
lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật.
Khi đã tích lũy đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy,
phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ
những thay đổi mang tính chất tiến hoá sang những thay đổi mang tính chất cách
mạng.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tuỳ theo mục đích cụ thể, cần từng
bước tích lũy dần về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật; đồng thời có
thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật.
Chống khuynh hướng “tả” khuynh, chủ quan, nóng vội, chưa có sự tích lũy
về lượng đó muốn thực hiện bước nhảy về chất. Chống khuynh hướng “hữu” khuynh,
1
.tới giạn hạn nhất định gọi là điểm nút
7
bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về chất khi đó có đủ tích
lũy về lượng.
Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ
các điều kiện chín muồi.
2.3 Vận dụng quy luật lượng - chất trong công tác đổi
mới phương pháp dạy học ở nước ta
2.3.1 Thực trạng của công tác đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta
Với những yêu cầu ngày càng cao của xã hội, thực tế trong những năm qua
nền giáo dục nước ta đã từng bước sử dụng những phương pháp dạy học mới, gặt
hái một số thành công nhưng cũng có không ít những bất cập. Từ các thông tin
về đổi mới phương pháp, thực tế dạy học ở địa phương, ở trường sở tại và thực
tế giảng dạy của bản thân, tôi xin phép đưa ra một vài nhận định về thực trạng
phương pháp và rút ra một số nguyên nhân như sau:
a) Thành tựu
Hưởng ứng chủ trương đổi mới phương pháp của ngành giáo dục ban hành,
những năm qua ngành giáo dục nước ta đã có nhiều cuộc hội thảo về đổi mới
phương pháp, những đợt tập huấn thay sách nhằm mục đích đổi mới phương
pháp diễn ra ở các cấp. Công tác đổi mới phương pháp đã trở thành một phong
trào sôi nổi không chỉ trên mô hình lí luận mà đã được kế hoạch hóa, tổ chức thực
hiện bằng các hoạt động thi đua dạy - học theo mô hình phương pháp dạy học
mới trong các trường học, cấp học và với bản thân từng giáo viên. Một số phương
pháp mới đã được áp dụng như phương pháp nêu vấn đề, phương pháp dạy học
động não, phương pháp dạy học báo cáo lại, phương pháp dạy học nghiên cứu
trường hợp, .Nhằm phát huy vai trò của chủ thể học, tích cực hóa hoạt động
của học viên. Bên cạnh đó, việc đưa các phương tiện hiện đại vào quá trình dạy
học cũng được tiến hành như Overhead, projector, multimedia, .Những thành
tựu này phần nào cho thấy đổi mới phương pháp đã trở thành mối quan tâm lớn
của mọi người, đã nhận thức được tầm quan trọng của nó đối với sự nghiệp cải
cách giáo dục.
b) Hạn chế
8
Mọi cố gắng đổi mới phương pháp dạy học ở các trường đại học, cao đẳng,
trung học phổ thông, trung học cơ sở đều là những biểu hiện tích cực nhưng chỉ
mới phát huy ảnh hưởng một cách cục bộ. Sự đổi mới phương pháp thiếu sự chỉ
đạo đồng bộ để có định hướng chung cho sự đổi mới. Đã có một số chuyên đề bồi
dưỡng về đổi mới phương pháp nhưng chưa đáp ứng được những vấn đề thực tiễn
bức xúc trong dạy học bộ môn. Các chuyên đề bồi dưỡng còn chủ yếu thiên về
nâng cao kiến thức, chú trọng tiềm lực cho giáo viên mà chưa đi vào giải quyết
thấu đáo cơ sở khoa học của phương pháp dạy học, hệ thống phương pháp dạy
học và bản chất của phương pháp dạy học, khả năng vận dụng phương pháp dạy
học, .Vì vậy, khi thực hiện vận dụng phương pháp mới vào quá trình dạy học,
giáo viên còn lúng túng, chưa tự tin. Hơn nữa, đổi mới phương pháp chủ yếu sôi
nổi, tích cực tại các hội thảo, trong một vài giờ thao giảng, dự giờ lên lớp, một
vài đợt phát động thi đua, .Dự hội thảo, lớp bồi dưỡng xong ai cũng gật gù khen
phương pháp dạy học mới là hay nhưng về trường không áp dụng được. Ngay
cả đội ngũ giáo viên giỏi được coi là xương sống, là nòng cốt cho việc triển khai
các phương pháp mới cũng chỉ dạy giỏi trong giờ thao giảng. Còn để áp dụng đại
trà thì không thể. Vì có vô số nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Như vậy,
đổi mới phương pháp chưa thực sự diễn ra thường xuyên trong cả quá trình dạy
học. Cho nên, tình trạng đọc chép ở một số giờ dạy các môn khoa học xã hội
là chuyện thường ngày ở trường. Kết quả là, phương pháp cũ vẫn chiếm ưu thế,
chất lượng giáo dục vẫn không tốt hơn. Tất nhiên chúng ta không thể phủ nhận
những thành tích thực sự đã đạt được của một số trường, của những giáo viên
gương mẫu cố gắng thực hiện tốt công tác đổi mới phương pháp.
Hiện tượng bất cập này xảy ra phổ biến ở các trường học, các cơ sở đào
tạo thậm chí cả với những giáo viên mà chính họ là những người nghiên cứu đề
xuất dạy theo phương pháp dạy học mới, hoặc những giáo viên trực tiếp giảng
dạy môn phương pháp dạy học ở các trường đại học, cao đẳng. Hiện tượng phổ
biến đến nỗi nếu có một cuộc hội thảo về đổi mới phương pháp nào sắp diễn
ra, người ta nhìn nhau tặc lưỡi: lại hội thảo, đổi mới chẳng thấy đâu, chỉ thấy
tốn kém! .. Thiết nghĩ, đây là một tình trạng nhức nhối đối với ngành giáo dục
chúng ta trong những năm qua và có lẽ sẽ vẫn còn tiếp tục nếu không có biện
pháp khắc phục. Có nhiều nhận định đánh giá về chất lượng của giáo dục nước
ta trong những năm qua với những thành tựu nhưng cũng không ít những yếu
kém, xin nêu ra vài ý kiến sau:
9
• Ý kiến của Trúc Giang - TP. Hồ Chí Minh trong chuyên mục diễn đàn giáo
dục báo phụ nữ chủ nhật, số 38 ngày 26-9-t2004 cho rằng: "Hiện nay giáo
dục chỉ nhằm phần nhiều đến người tổ chức giáo dục. Được thấy qua hiện
tượng thay đổi phương pháp dạy học giáo dục xoành xoạch để thử nghiệm
các mô hình lí luận với một bước tiến nhưng cũng kèm theo vài bước lùi.
Đó là hiện tượng chạy theo thành tích của một số không nhỏ tổ chức giáo
dục để được cái gọi là 100 XS, .Nhưng chất lượng thì ra sao? .Hiện nay nói
riêng về giáo dục bậc phổ thông, với sự thay đổi liên tục về phương pháp dạy
học giảng dạy, sự áp đặt của nội dung chương trình, sự hời hợt trong việc
kiểm tra, định giá chất lượng học tập của học sinh, sự chạy theo thành tích
ảo, .Học sinh trở thành con rối, công cụ để thử nghiệm, để người lớn đánh
bóng hình ảnh của mình, ."
• Tại diễn đàn đổi mới giáo dục đại học và hội nhập quốc tế ngày 22-6-2004.
Hội đồng diễn ra đã chỉ ra 6 yếu kém và bất cập cơ bản của giáo dục đại học
Việt Nam, trong đó bất cập thứ ba thuộc về chương trình và phương pháp
dạy học giảng dạy chậm chuyển đổi, phần lớn vẫn theo những gì vốn có của
20-30 năm về trước, và đặc biệt thiếu sự gắn kết giữa đào tạo với nghiên cứu
khoa học.
• Còn trong báo cáo về tình hình giáo dục của chính phủ dự kiến trình quốc
hội ngày 15-11-2004, có đề cập tới 4 yếu kém, 3 nguyên nhân dẫn đến chất
lượng giáo dục thấp. Trong đó, yếu kém đầu tiên được đề cập là chất lượng
giáo dục đại trà còn thấp so với yêu cầu, phương pháp dạy học giáo dục chậm
đổi mới. Điều này thể hiện ở giáo dục phổ thông vẫn chưa khắc phục được
tình trạng thiên về dạy chữ. Trong giáo dục nghề nghiệp và Đại học, người
học còn thiếu cố gắng, thiếu trung thực trong học tập nên chất lượng đào tạo
thấp. Cách dạy, học trong các nhà trường chủ yếu theo lối truyền thụ kiến
thức một chiều, áp đặt.
Những ý kiến trên nhìn chung đã phản ánh một thực trạng chất lượng giáo
dục thấp. Mà một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng giáo dục thấp
là phương pháp còn quá lạc hậu.
c) Nguyên nhân
Thứ nhất, về tư tưởng nhận thức, đội ngũ quản lí giáo dục còn quá chủ quan
10

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét