Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm giày thể thao sang thị trường eu của công ty cổ phần đầu tư và sản xuất giày thái bình


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm giày thể thao sang thị trường eu của công ty cổ phần đầu tư và sản xuất giày thái bình": http://123doc.vn/document/1054148-day-manh-xuat-khau-san-pham-giay-the-thao-sang-thi-truong-eu-cua-cong-ty-co-phan-dau-tu-va-san-xuat-giay-thai-binh.htm


nguyên vật liệu, bán thành phẩm” tức là ngoài cơ sở hạ tầng như trên công ty đã có
thêm trong tay hệ thống dây truyền máy móc hay nói cách khác công ty đã làm chủ
các nguồn lực như cơ sỏ hạ tầng, máy móc trang thiết bị và nguồn nhân lực. Khi đó
việc kí kết hợp đồng công ty sẽ không phải tốn thời gian nhập khẩu máy móc hay
tái xuất máy móc cho bên đối tác nữa. Chuyển sang hình thức kinh doanh này công
ty đã chủ động hơn trong việc sắp xếp các đơn hàng, giảm thời gian vận chuyển
máy móc, năng động hơn trong việc tìm bạn hàng và đối tác, tăng doanh thu, lợi
nhuận cho công ty.
+ Với đà phát triển này năm 1995-1996 công ty đã đầu tư xây dựng thành công
nhà máy số 2 với dây truyền sản xuất hiện đại của USM , ngay sau khi nhà máy xây
dựng xong công ty đã ký được hợp đồng lớn sản xuất cho tập đoàn ReeBok - một
tập đoàn lớn và nổi tiếng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, một thời gian sau do thị trường
của tập đoàn ReeBok bị thu hẹp nên tập đoàn đã cắt giảm hợp đồng từ 5 nhà cung
cấp trong đó có công ty giày Thái Bình, cùng lúc đó công ty ORION TAIWAN đã
chuyển đơn hàng sang công ty giày Hải Vinh. Trước những khó khăn trên công ty
đã quyết định đầu tư sang lĩnh vực sản xuất giày vải, đồng thời phát triển hơn nữa
trong sản xuất giày thể thao. Những đôi giày vải đầu tiên của công ty được sản xuất
cho hãng Novi của Đức, và trong khoảng thời gian từ cuối năm 1996 đến đầu năm
1997 công ty đã liên tục kí được hợp đồng trực tiếp với tập đoàn phân phối khổng lồ
tại Pháp là DECATHLON và một số hãng giày khác như Stilman, DC, Quiksilver,
Sketcher …
3. Giai đoạn 1998-2006
+ Đây là giai đoạn của sự hoàn thiện và phát triển.Trong giai đoạn này công ty
giày Thái Bình tập trung vào xây dựng, mở rộng và hoàn thiện bộ máy sản xuất và
văn phòng làm việc. Công ty đã hoàn tất mô hình sản xuất khép kín gồm khu trung
tâm phát triển mẫu, văn phòng hành chính tiện nghi đúng tiêu chuẩn quốc tế đáp
ứng mọi nhu cầu của khách hàng và một loạt nhà máy sản xuất quy mô lớn có trang
bị thiết bị đồng bộ, hiện đại ra đời. Cũng trong giai đoạn này với khả năng nhạy bén
sáng tạo, nhận biết đúng tình hình nên hội đồng quản trị và ban lãnh đạo công ty đã
5
quyết định chính thức thành lập thêm một số công ty tham gia hoạt động thị trường
với lĩnh vực hoàn toàn mới như lĩnh vực tài chính và lĩnh vực bất động sản. Bên
cạnh đó, ban lãnh đạo công ty vẫn xác định hoạt động chính của công ty vẫn là hoạt
động gia công sản xuất giày xuất khẩu. Quá trình phát triển mở rộng công ty được
thể hiện qua sự ra đời của một số công ty sau:
* Ngày 24/04/2000 công ty cổ phần Địa Ốc ARECO được thành lập. Công ty này
hoạt động trong lĩnh vực bất động sản và hoạt động hoàn toàn độc lập với công ty
TNHH Thái Bình.
* Ngày 08/05/2000 tiếp tục thành lập công ty TNHH giày Thanh Bình chuyên sản
xuất đế phục vụ cho sản xuất giày xuất khẩu, với công suất 12 triệu đôi/năm.
* Ngày 16/11/2001 ban lãnh đạo công ty quyết định thành lập thêm công ty liên
doanh Pacific chuyên sản xuất nguyên liệu EVA và giày dép cao loại với công suất
2,7 triệu đôi/năm, góp phần vào sự phát triển vững mạnh của công ty TBS’ Group.
* Tháng 9/2002 thành lập nhà máy thứ tư mang tên công ty cổ phần 434 chuyên
sản xuất khuân mẫu kĩ thuật cao TBS với công suất chế tạo 1200 khuân/năm để
phục vụ khuân cho hoạt động sản xuất giày xuất khẩu của công ty.
* Ngày 13/6/2005 công ty đã đăng ký thay tên lần đầu chuyển đổi từ Công ty
TNHH Thái Bình thành Công ty Cổ phần Giày Thái Bình. Đến ngày 27/6/2006
công ty thay đổi tên lần 2 và trở thành Công ty Cổ phần Đầu tư và Sản xuất Giày
Thái Bình.
+ Hiện nay, tuy công ty có nhiều công ty con hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau nhưng hoạt động chủ yếu của công ty vẫn là sản xuất, gia công giày xuất khẩu.
Công ty đã trở thành một công ty xuất khẩu giày lớn trong nước và có uy tín với các
đối tác nước ngoài, hàng năm công ty có đóng góp một lượng không nhỏ vào ngân
sách Nhà nước. Ban lãnh đạo và toàn bộ công nhân viên của công ty đang rất phấn
khởi nhìn lại kết quả hoạt động trong những năm qua và chuẩn bị cho một năm mới
với những kế hoạch mới, thắng lợi mới.
6
III. KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY
1. Tình hình phát triển thị trường xuất khẩu của công ty
+ Ngay từ những ngày đầu thành lập công ty Giày Thái Bình đã tự mày mò, tự tìm
thị trường xuất khẩu cho mình. Ngay trong quá trình xây dựng nhà máy đầu tiên
công ty đã gửi đơn chào hàng đến một số hãng, một số nhà phân phối giày thuộc thị
trường Eu và Mỹ như một số nhà phân phối lớn của hãng Reebok, nhà phân phối
Decathlon, công ty Orion Taiwan.
+ Ngay sau khi nhà máy đầu tiên đi vào hoạt động 07/1993 công ty đã nhận được
hợp đồng từ công ty Orion Taiwan với sản lượng 6 triệu đôi/năm giày nữ các loại.
Đây là một nhà phân phối giày dép lớn tại Mỹ, việc ký kết được hợp đồng với công
ty đã thể hiện phần nào khả năng gia công sản xuất của công ty Thái Bình.
+ Trong 2 năm tiếp theo công ty luôn duy trì hoạt động gia công cho công ty Orion
Taiwan và không ngừng tìm kiếm các bạn hàng khác, mở rộng thị trường xuất khẩu
của mình tại thị trường EU. Bởi đây là thị trường đầy tiềm năng và có rất nhiều cơ
hội cho các doanh nghiệp nước ngoài xuất khẩu giày dép của mình vào thị trường.
Trong 2 năm này công ty thực hiện các hợp đồng cho các bạn hàng nước ngoài chủ
yếu vẫn là hoạt động gia công thuần tuý.
+ Đến năm 1995 công ty đã chuyển đổi từ phương thức hoạt động gia công thuần
tuý sang phương thức mua nguyên vật liệu bán thành phẩm. Bởi ban lãnh đạo công
ty thấy được lợi ích mang lại từ phương thức hoạt động mua nguyên vật liệu bán
thành phẩm. Nhờ hình thức chuyển đổi này mà công ty đã nhận thêm được hợp
đồng sản xuất của nhà phân phối Decathlon tại Pháp và nhà phân phối cho hãng
giày Piston tại Italy.
+ Với đội ngũ nhân viên kinh doanh năng động và nhiệt huyết Công ty Giày Thái
Bình không chỉ tìm cách duy trì và thắt chặt mối quan hệ với các khách hàng hiện
có, khai thác rộng hơn sâu hơn tại thị trường EU như ở Bỉ, Đức, Anh, Đan Mạch,
Phần Lan mà còn liên hệ và kí kết hợp đồng với hãng DC và nhà phân phối Anh
Sung ở Korea vào năm 1997.
7
+ Từ năm 1997-2000 công ty không làm ăn thêm với đối tác nào nhưng thị trường
công ty vẫn mở rộng ra thêm một số nước như Anh, Luxembua, Ba Lan, Đức, Tây
Ban Nha, Mỹ do các đối tác của công ty ngày càng mở rộng thị trường do vậy công
ty tập trung thực hiện các hợp đồng cho các đối tác của mình.
+ Từ sau năm 2000 công ty tiếp tục mở thêm một số nhà máy, quy hoạch và phân
bố lại sản xuất công ty tiếp tục nhận thêm hợp đồng xuất khẩu giày dép cho một số
hãng mới như: Samil, Tristar ở Korea; Skecher ở Mexico; BBC, Walmark ở Mỹ.
+ Sau hơn 15 năm phát triển hiện nay thị trường xuất khẩu của công ty đã mở rộng
ra trên hầu hết các nước tại thị trường châu Âu như Pháp, Bỉ, Áo, Đức, Đan
Mạch Nhưng thị trường Pháp và Bỉ là hai thị trường có sản lượng xuất khẩu lớn
chiếm tới 40-50% tổng sản lượng xuất khẩu. Do hoạt động xuất khẩu của công ty sử
dụng phương tiện tàu để vận chuyển nên, mà hai nước này lại có cảng lớn nên
thường được sử dụng làm địa điểm trung gian để xuất sang các thị trường khác.
Ngoài ra, thị trường giày xuất khẩu của công ty còn mở rộng ra một số nước thuộc
các châu như: châu Mỹ bao gồm các nước Mỹ, Canada Brazin, Chile, Panama,
Costika, Actentina; châu Á bao gồm Trung Quốc, Inđonexia, Thái Lan; châu đại
Dương bao gồm các nước như Newzilan, Australia, Arap Saudi; châu Phi có South
Africa với các hãng giày nổi tiếng như Reebok, Levi’s, DC, Sketcher, Piston,
Walmark. Mặc dù Trung Quốc là thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất và với giá
rẻ nhưng ngay tại đây cũng có một chi nhánh của đối tác làm ăn với công ty.
+ Ngày nay, thị trường của công ty đã và đang mở rộng ra trên khắp các nước
thuộc các châu lục, nhưng thị trường EU vẫn là thị trường xuất khẩu chính của công
ty. Hàng năm khối lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này vẫn chiếm tỷ lệ lớn
trong tổng số lượng sản phẩm xuất khẩu.
8
Bảng 1.1: Kim ngạch xuất khẩu vào các thị trường giai đoạn 2004-2006
Thị
trường
Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006
KNXK
(1000 VNĐ)
Tỉ
trọng
(%)
KNXK
(1000 VNĐ)
Tỉ
trọng
(%)
KNXK
(1000 VNĐ)
Tỉ
trọng
(%)
EU 402925659,22 81,47% 45346943,58 80,09% 604681275,15 82,23%
Châu
Mỹ 79477296,47 16,07% 9240381,06 16,32% 121627487,42 16,54%
Châu Á 12166406,31 2,46% 1851473,41 3,27% 6397576,42 0,87%
Khác 0 0% 181183,94 0,32% 2647273,00 0,36%
Tổng 494569362 100% 56619982 100% 735353612 100%
Nguồn: Phòng kinh doanh – phòng xuất nhập khẩu.
+ Do xu hướng tiêu dùng của thị trường thay đổi, sản phẩm giày vải, giày nữ đã
dần mất vị trí thay vào đó là sản phẩm giày thể thao nên công ty ngày càng sản xuất
ít giày vải, giày nữ, dép. Sản phẩm giày thể thao ngày càng được sản xuất với tỷ lệ
lớn. Từ năm 2004 công ty hầu như đã sản xuất toàn bộ giày thể thao xuất khẩu, đây
không chỉ là hướng đi cho riêng công ty giày Thái Bình mà là xu hướng phát triển
chung của toàn bộ các công ty trong ngành tại Việt Nam.
9
+ Trong năm 2006 ngành sản xuất gia công giày dép nước ta gặp khó khăn về thị
trường do ngành bị uỷ ban châu Âu EC kiện bán phá giá giày. Trong cuộc bỏ phiếu
về việc áp thuế chống bán phá giá đối với giày da của Việt Nam vào EU với 9 phiếu
thuận, 4 phiếu trắng và 12 phiếu phản đối, nhưng theo EU bỏ phiếu chống cũng
được coi là chấp thuận nên cuối cùng ngày 4/10/2006 liên minh EU vẫn áp dụng
thuế 10% đối với giày da Việt Nam. Theo lịch trình loại thuế này phải ngừng vào
tháng 10/2006 nhưng đến ngày 5/10/2006 mức thuế mới được đưa ra để tiếp tục áp
dụng cho giai đoạn 2 năm. Về việc này chính trong nội bộ EU cũng mâu thuẫn
nhưng thiệt hại cuối cùng vẫn thuộc về các doanh nghiệp Việt Nam. Do giày mũ da
bị áp thuế bán phá giá tăng dẫn đến lợi nhuận thu về kém nên có nhiều đối tác nước
ngoài đã bỏ thị trường Việt Nam và quay sang tìm bạn hàng ở các nước khác rẻ hơn
như ở Thái Lan, làm các doanh nghiệp sản xuất gia công tại Việt Nam gặp nhiều
khó khăn. Mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều khó khăn nhưng công ty Giày
Thái Bình vẫn đứng vững thậm chí doanh thu giảm không đáng kể so với các năm
trước.
2. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh xuất khẩu
của công ty trong giai đoạn 2004-2006.
Sau hơn 15 năm đi vào hoạt động công ty Cổ phần Đầu tư và Sản xuất Giày Thái
Bình đã không ngừng lớn mạnh về quy mô, tăng về nguồn vốn và thị trường, nâng
cao vị thế và uy tín của công ty trên thị trường trong nước và nước ngoài, tạo công
ăn việc làm cho hàng nghìn người lao động, gián tiếp góp phần giải quyết vấn đề xã
hội đang nổi cộm của nước ta, đó là vấn đề lao động. Ngoài ra hàng năm công ty
còn đóng góp vào ngân sách Nhà nước góp phần không nhỏ góp phần tạo ra sức
mạnh cho nền kinh tế nước nhà. Sau đây em xin trình bày một số chỉ tiêu cơ bản thể
hiện rõ nét về kết quả, tình hình hoạt động của công ty trong những năm gần đây.
10
Bảng 1.2: Kết quả hoạt động kinh doanh công ty giai đoạn 2004-2006
Năm Đơn vị 2004 2005 2006
Sản lượng đôi
5.584.96
2
5.872.78
6
9.377.63
4
Tốc độ tăng % 5,15% 59,68%
Doanh thu đôi 494.569.362 566.190.982 984.639.245
Tốc độ tăng % 14,48% 73,91%
Lợi nhuận đôi
10.336.50
0
21.402.01
9
36.727.04
4
Tốc độ tăng % 107,05% 71,61%
Nguồn: Phòng kế toán.
2.1 Xét về chỉ tiêu tổng sản lượng xuất khẩu công ty
+ Sản lượng xuất khẩu công ty giai đoạn 2004-2006 tăng nhanh qua các năm. Nếu
năm 2004 sản lượng giày xuất khẩu của công ty đạt 5.584.962 đôi thì sang năm
2005 sản lượng xuất khẩu đạt 5.872.786 đôi, tăng 287.824 đôi tương ứng tăng
5,15% so với năm 2004. Đặc biệt bước sang năm 2006 sản lượng giày xuất khẩu
của công ty tăng đột biến lên đến 9.377.634 đôi, tăng 3.508.848 đôi tương ứng tăng
59,68% so với năm 2005.
+ Khối lượng sản phẩm xuất khẩu tăng nhanh phản ánh sự tài tình của ban lãnh
đạo trong lĩnh vực quản trị sản xuất. Việc phân bổ các nguồn nguyên vật liệu,
nguồn nhân công sản xuất với một lượng lớn như vậy mà vẫn kịp tiến độ là điều
không đơn giản. Nhất là đặc điểm của ngành sản xuất gia công giày là có thời vụ
nên đôi khi việc thực hiện các đơn hàng lớn dồn về trong một vài tháng trong năm
(chủ yếu là các tháng cuối năm và đầu năm) nên đôi lúc công ty phải cho công nhân
làm thêm giờ và thuê các công ty khác gia công, sản xuất.
+ Việc điều hành sản xuất tốt, tăng lượng hàng xuất khẩu thì dây chuyền máy móc
tại các phân xưởng hoạt động với công suất cao, giảm thiểu thời gian chết máy, do
đó sẽ giảm được chi phí hao mòn vô hình cho máy móc. Cùng với đó là công nhân
tại các nhà máy cũng có việc làm ổn định trong tháng, mặc dù có thể có nhiều buổi
tăng ca trong tháng nhưng công ty luôn có chế độ làm thêm giờ hợp lý cho người
11
lao động, điều này tạo tâm lý thoải mái khi làm việc của các công nhân và tạo thêm
thu nhập cho người lao động.
+ Năm 2006 là năm ngành giày dép nước ta gặp phải một số khó khăn bởi vụ kiện
của Uỷ ban châu Âu (EC) về việc bán phá giá giày mũ da của các doanh nghiệp
Việt Nam sang các nước thuộc khối liên minh châu Âu EU. Đặc biệt việc áp dụng
thuế chống phá giá lên giày mũ da của EU đối với Việt Nam liên tục tăng đã làm
cho các doanh nghiệp gia công sản xuất giày Việt Nam gặp khó khăn trong việc các
đơn hàng bị giảm, doanh thu không đủ bù đắp chi phí, công nhân phải nghỉ việc thì
trái lại công ty Giày Thái Bình lại thu hút thêm nhiều hợp đồng và khối lượng hàng
hoá trong mỗi hợp đồng lại lớn, không những doanh nghiệp không gặp khó khăn mà
doanh thu, lợi nhuận còn tăng.
2.2 Xét về chỉ tiêu doanh thu xuất khẩu
+ Tương ứng với sản lượng xuất khẩu tăng, doanh thu của công ty do hoạt động
xuất khẩu giày dép mang lại cũng tăng dần. Năm 2004 tổng doanh thu xuất khẩu đạt
494.569.362 nghìn đồng thì năm 2005 tổng doanh thu đạt 566.190.982 nghìn đồng,
tăng 71.621.620 nghìn đồng tương ứng tăng 14,48% so với 2004. Đến năm 2006
doanh thu xuất khẩu đạt 984.639.245 nghìn đồng, tăng 418.448.263 nghìn đồng
tương ứng tăng 73,91% đây là một tỷ lệ tăng đột biến và ở mức rất cao so với mức
tăng trung bình của các doanh nghiệp cùng ngành, chỉ trong một năm doanh thu
xuất khẩu của công ty đã tăng gần gấp đôi. Con số này là không nhỏ nhất là đối với
công ty Giày Thái Bình có doanh thu hàng năm lớn so với các công ty khác trong
nghành.
12
Nhìn vào biểu đồ trên nếu ta so sánh tốc độ tăng của doanh thu so với tốc độ tăng
của sản lượng thì tốc độ tăng của doanh thu cao hơn rất nhiều. Nếu năm 2005 tốc độ
tăng của sản lượng chỉ đạt 5,15% thì doanh thu tăng 14,48% chênh lệch 9,33%.
Năm 2006 sản lượng xuất khẩu chỉ tăng 59,67% còn doanh thu xuất khẩu tăng
73,91% chênh lệch 14,23%. Nguyên nhân của việc tốc độ tăng của doanh thu nhanh
hơn tốc độ tăng của lợi nhuận là do công ty đang có xu hướng sản xuất giày cao cấp
hơn, có chất lượng tốt hơn phục vụ nhu cầu ngày càng khó tính của khách hàng.
+ Doanh thu cao, công ty có chính sách khen thưởng động viên kịp thời đến từng
cán bộ công nhân viên để khuyến khích họ thêm hăng say công việc, có ý chí phấn
đấu vươn lên, ham học hỏi từ đó đảm bảo duy trì chất lượng thực hiện công việc
luôn tốt và phát huy hơn nữa trên mọi lĩnh vực. Doanh thu tăng không chỉ động viên
khuyến khích cán bộ công nhân viên trong công ty mà nó còn giúp doanh nghiệp
thể hiện vị thế của mình trong mắt các khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng
của công ty. Nhất là hiện nay công ty đang có chiến lược thu hút thêm một số khách
hàng lớn để phục vụ cho việc phát triển mở rộng của công ty cũng như công ty đang
hướng đến việc tiếp cận trực tiếp tới các nhà phân phối lớn tại các thị trường lớn
như Mỹ, EU. Công việc này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có trình độ, có năng lực
13
và đòi hỏi công ty phải có nguồn vốn lớn tức nguồn tài chính mạnh mới có thể thực
hiện thành công.
2.3 Xét về chỉ tiêu lợi nhuận của công ty.
+ Năm 2004 tổng lợi nhuận sau thuế của công ty trong lĩnh vực xuất khẩu đạt
10.877.593 nghìn đồng, năm 2005 đạt 21.402.019 nghìn đồng tăng 11.065.519
nghìn đồng tương ứng tăng 107,05%. Sang năm 2006 tổng lợi nhuận sau thuế công
ty đạt 36.727.044 nghìn đồng, tăng 15.325.025 nghìn đồng tương ứng tăng 71,61%.
Như vậy, tổng lợi nhuận sau thuế của công ty trong lĩnh vực xuất khẩu tăng không
đồng đều qua các năm. Nếu so sánh tốc độ tăng của doanh thu so với tốc độ tăng
của lợi nhuận thì tốc độ tăng của lợi nhuận giảm trong năm 2006. Năm 2005 tốc độ
lợi nhuận tăng 107,05% nhưng sang năm 2006 tốc độ chỉ tăng 71,61%, trong khi tốc
độ tăng của doanh thu tăng từ 14,48% năm 2005 lên 73,91% năm 2006. Để đánh giá
lợi nhuận của công ty ta xét tỉ lệ lợi nhuận so với doanh thu.
Bảng 1.3: Tỉ lệ lợi nhuận so với doanh thu năm 2004-2006
Năm Đơn vị 2004 2005 2006
Doanh thu 1000đ 494.569.362 566.190.982 984.639.245
Lợi nhuận 1000đ 10.336.500 21.402.019 36.727.044
Tỉ lệ lợi nhuận
so với doanh thu % 2,09% 3,78% 3,73%
Nguồn: Phòng kế toán.
+ Qua bảng trên ta thấy tỉ lệ lợi nhuận sau thuế của hoạt động xuất khẩu giày
chiếm 2,09% trong năm 2004, trong 2 năm 2005, 2006 tương ứng đạt 3,78%;
3,73%, như vậy giảm trong năm 2006 nhưng nhìn chung là tương đối ổn định. Với
tốc độ tăng này đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty và tăng thu nhập cho người lao
động.

14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét