Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

Tài liệu LUẬN VĂN: Chính sách kinh tế mới của LêNin ppt


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Tài liệu LUẬN VĂN: Chính sách kinh tế mới của LêNin ppt": http://123doc.vn/document/1045969-tai-lieu-luan-van-chinh-sach-kinh-te-moi-cua-lenin-ppt.htm




d. Về tài chính tín dụng:
Lạm phát ngày càng cao tới mức không kiểm soát nổi. Ngân hàng nhà nước chưa
được thiết lập lại, dự trữ vàng bảo đảm cho lưu thông giảm đi. Ngân sách nhà nước
bội liên miên. Hệ thống tài chính-tín dụng lâm vào tình trạng rối loạn.
Tóm lại, tình trạng kinh tế nước Nga bây giờ vô cùng yếu kém. Cả sản xuất
và lưu thông đều sa sút. Đời sống của nhân dân cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự.
Thu nhập của công nhân và nông dân đều giảm. Cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra
đã kéo nền kinh tế nước Nga xuống thấp hơn rất nhiều lần so với trước chiến tranh.
e. về thương nghiệp:
Kể từ khi thực hiện chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến, thương nghiệp bị xoá
bỏ hoàn toàn. Nền kinh tế mang tính chất hiện vật cao. Trao đổi sản phẩm trên thị
trường bị cấm. Nhà nước vẫn áp dụng chế độ tem phiếu, trực tiếp phân phối bằng
hiện vật cho người tiêu dùng và theo hướng bình quân hoá. Thị trường thiếu hàng
hoá, vận động một cách chậm chạp. Tính ỳ của nền kinh tế càng tăng do sự can
thiệp quá sâu của nhà nước vào thương nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói
chung.
2. Tình hình chính trị-xã hội :
Tình hình kinh tế như trên đã dẫn tới tinh hình chính trị –xã hội không mấy khả
quan. Nông dân luôn có tâm trạng bất mãn do những mong đợi về cảI thiện đời
sống sau chiến tranh không được đáp ứng. Lòng tin của giai cấp nông dân đối với
cách mạng giảm dần. Giai cầp công nhân mất dần bản chất giai cấp do số công
nhân thất nghiệp tăng, điều kiện sống của họ không được đảm bảo. Nhà nước Xô-
Viết vẫn còn non trẻ, lại vừa phải lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống bọn phản
động và đế quốc nên ít nhiều vẫn còn sai sót trong lãnh đạo. Đặc biệt là sự nóng
vội trong việc hoạch định đường nối đI lên xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của
Đảng yếu đi do lòng tin của nhân dân đối với Đảng Cộng sản không còn như trước
nữa. Liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ do những mối liên hệ kết nối về kinh
tế giữa hai giai cấp bị nhà nước làm cho mờ nhạt dần. Bên cạnh đó, xuất hiện tình
trạng một số người lợi dụng tình hình khủng hoảng bất ổn để gây rối loạn kinh tế
như bọn đầu cơ tích trữ. Nạn trộm cắp, lừa đảo xảy ra ở nhiều nơi khiến cuộc sống
của người dân không được yên ổn. An ninh chính trị ngày càng bất ổn định. Tình


hình trên đe doạ sự tồn tại của nền chuyên chính vô sản. Với thưc trạng đất nước
như vậy khiến cho người dân không thể không đặt ra câu hỏi là liệu chế độ chuyên
chính vô sản có đưa nước Nga đạt tới sự phát triển bền vững hay không và có thực
sự đem lại dân chủ bình đẳng, tự do hạnh phúc cho đời sống nhân dân hay không?
Nhà nước Xô Viết đã phải thực sụ đương dầu với những thử thách vô cùng
gay go phức tạp. Việc giải quyết những vấn đề đó không phải là dễ dàng. Giai cấp
vô sản đứng lên lãnh đạo chưa lâu chưa có kinh nghiệm quản lý và lãnh đạo, đặc
biêt lãnh đạo một đất nước có nhiều giai cấp cùng song song tồn tại một quốc gia
đa dân tộc rộng lớn. Mặt khác ban lãnh đạo còn xuất hiện những ý kiến khác nhau,
nên khó thống nhất hoạt động trong khi nội chiến chưa kết thúc, tình hình chính tri
vô cùng rối ren, trong khi kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng.
3. Ngyên nhân:
**. Cơ sở lý luận và sự cần thiết của một chính sách mới:
Trong qúa trình chiến đấu và chiến thắng của nhà nước Xô -Viết suốt bảy thập kỷ
qua, mùa xuân năm 1921 đã đi vào lịch sử Liên Xô và lịch sử chủ nghĩa xã hội thế
giới như một bước ngoặt: Đảng cộng sản và Nhà nước Xô- Viết trẻ tuổi ban hành
chính sách “Kinh tế mới”.
Cuối năm 1920 tình hình kinh tế bị chi phối bởi một mạng lưới dày đặc các quan
hệ tiền tư bản chủ nghĩa. Quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa chủ yếu tồn tại trong nông
thôn (dân số nông thôn chiếm 82, 4% dân số, kinh tế nông nghiệp chiếm 51, 4%
thu nhập quốc dân) đặc điểm này được Lê-nin rất chú ýphân tích khi Người vạch ra
chiến lược tình thế giải quyết cuộc khủng hoảng và chiến lược lâu dài xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đặt đúng vị trí của vấn đề nông dân và nông nghiệp trong chiến
lược và sách lược của Đảng có ý nghĩa quyết định đến bảo vệ những thành quả của
cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước đây, chính quyền Xô -Viết đứng vững được trong nội chiến và sự can thiệp
của nước ngoài là nhờ tinh thần hy sinh của nhân dân, trước hết là giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân. Nhiệt tình cách mạng của quần chúng là động lực duy
nhất trong chiến đấu và chiến thắng.
Sau chiến tranh, giai cấp nông dân vẫn là người chủ yếu nuôi sống đất nước, đời
sống của họ lại đang thiếu thốn, khó khăn. Nếu Đảng giữ được nhiệt tình cách


mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ được cách mạng. Ngược lại nếu làm mất lòng
tin của họ thì sự nghiệp cách mạng sẽ hết sức nguy hiểm. Giữ được lòng tin lúc
này có nghĩa là phải tìm ra động lực của thời kỳ xây dựng. Xuất phát từ sự phân
tích đó, Lê- nin đã chỉ ra rằng: Phải bắt đầu từ nông dân và nông nghiệp, phải cải
thiện đời sống của người lao động trên cơ sở xây dựng quan hệ kinh tế bình thường
giữa nông nghiệp và công nghiệp, củng cố liên minh công nông trên cơ sở kinh tế
nhằm lôi cuốn những người sản xuất nhỏ vào việc xây dựng đất nước và đi lên chủ
nghĩa xã hội. Chỉ có một chính sách như vậy mới tạo được tiền đề cho sự nghiệp
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Lê-nin đã đóng vai trò quyết định
trong việc đưa lý luận mác-xít về thời kỳ quá độ vào thực tiễn cuộc sống và làm
phong phú thêm lý luận đó. Nhờ tư tưởng ấy mà Đảng đã sửa chữa được những sai
lầm trong thời kỳ đó.
Sau chiến tranh, khi những hy vọng trông chờ vào việc cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần không không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất mãn bắt
đầu tăng lên. Đó là điều kiện để bọn phản cách mạng lừa dối quần chúng, tập hợp
lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô-viết non trẻ
Những sai lầm chủ quan của người cộng sản cũng là một thực tế phải giải quyết
đồng thời với việc giải quết mâu thuẫn khách quan. Trong những năm tháng cần
thiết phải áp dụng “chính sách cộng sản thời chiến “ đã hình thành về quan niệm
khả năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Những chủ trương chính sách sai
lầm bắt nguồn từ quan niệm nôn nóng muốn chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội,
đã làm cho thành phần kinh tế chủ nghĩa xã hội sa sút. Lực lượng sản xuất hiện có
không thể sử dụng và mất mát, hao mòn. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ là
hình thức bề ngoài, xơ cứng và khô héo dần. Nhiều chủ trương biện pháp quá đáng
ra đời từ quan niệm này là một trong những nguy cơ làm tăng khủng hoảng.
Chính sách kinh tế là cả một cơ chế nhằm phục hồi và phát triển kinh tế nước
Nga đồng thời củng cố vững chắc nền chuyên chính vô sản. Nền kinh tế có phát
triển hay không sẽ qyuết định sự ổn định bền vững của hệ thống chính trị. Chính
sách kinh tế mới được thực hiện với mục đích khắc phục tình trạng kiệt quệ của
nền kinh tế nước Nga và đưa nó vào quỹ đạo phát triển trong thời kỳ quá độ nên
chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa là giúp cho chế độ chính trị được ổn định. Một nền


kinh tế mạnh là điều kiện kiên quyết để đạt được một chế độ chính trị vững vàng.
Khi lợi ích kinh tế của các giai cấp trong xã hội được đáp ứng một cách tương đối
công bằng thì mâu thuấn với chính trị sẽ đực giải quyết. Muốn nghiên cứu nội
dung của chính sách này, ta phảI đặt chúng trong mối quan hệ tác động qua lại với
nhau. Mối một khâu trong chính sách cần phải thấy rõ ý nghĩa của thếu lương thực
một bước đI dúng đắn của nhà nước Nga trong con đường quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Thếu lương thực cho phép nông dân có sản phẩm thừa đem trao đổi. Đây hoàn
toàn không phải là đi ngược với mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, nước Nga
vừa mới trải qua chiến tranh, lương thực thiếu. Nếu tiếp tục thực hiện chính sách
lương thực cũ, mà nhà nước độc quyền mua bán lương thực thì chỉ làm cho nông
nghiệp thêm sa sút mà thôi bởi chính sách cũ không còn phù hợp trong đIều kiện
mới nữa. Chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu hướng tới của cách mạng vô sản như sử
dụng biện pháp nào, cách thức nào để từng bước đạt được mục tiêu đó lại còn phụ
thuộc hoàn cảnh thực tiễn, không thể ngay một lúc thực hiện phân phối theo
phương thức cộng sản chủ nghĩa. Thuế lương thực là bước đấu tiên tạo cơ sở vật
chất cho việc tiếp tục thực hiện mục tiêu của cách mạng vô sản. Theo như Lê-nin
đã nói: “Thuế lương thự là một trong những hình thức của bước quá độ từ chủ
nghĩa cộng sản quân sự - chủ nghĩa cộng sản đặc biệt do tình trang cùng khốn cực
độ, tình trạng hoang tàn và chiến tranh buộc chúng ta phải thi hành, để bước sang
chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường. Và chế độ này là một hình thức của
bước quá độ từ chủ nghĩa xã hội với những đặc thù do tình trạng tiểu nông chiếm
ưu thế trong dân chúng tạo nên, sang chủ nghĩa cộng sản”. Chỉ có chính sách lương
thực như thế mới phù hợp với nhiệm vụ của giai cấp vô sản đang thực hiện quyền
chyên chính của mình trong một nước tiểu nông.
Nhà nước Xô Viết đã thực sự phải đối mặt với những thử thách vô cùng gay
go phức tạp. Viêc giải quyết tất cả những vấn đề đặt ra không phải là dễ dàng. Giai
cấp vô sản nắm chinh quyền chưa được bao lâu, ít nhiều còn chưa có kinh nghiệm
trong lĩnh đạo và quản lý, đặc biệt là quản lý một đất nước rộng lớn với cơ cấu giai
cấp phức tạp như nước Nga. Mặt khác, trong ban lãnh đạo xuất hiện những ý kiến,
quan điểm khác nhau nên khó thống nhất hoạt động. Khi nội chiến kết thúc tình


hình chính trị rối ren cũng là điều khó tránh khỏi trong bối cảnh một nền kinh tế
đang khủng hoảng trầm trọng.
Tình hình thực tế trên đây buộc nhà nước Xô-Viết phải xem xét lại đường
lối xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải chăng những việc làm trước đó của nhà nước
là đúng đắn, phù hợp với những lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội? Chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến được thi hành kéo dài
quá mức gây nên những khủng hoảng là một đIều không thể tránh khỏi. Nó không
phải là một giai đoạn tất yếu trong chính sách kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Mặt khác bản thân nhà nước Xô-Viết cũng nóng vội muốn chuyển
trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội không thích ứng với tính chất và trình độ cuẩ lực
lượng sản xuất thì tất yếu không thể tranh khỏi những thiếu sót và thực tế những
thiếu sót đó đã tạo ra những lỗ hổng lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Chính vì
quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất nên
khủng hoảng mới xảy ra. Quyền sở hữu, quản lý và tổ chức sản xuất đều thuộc nhà
nước trong khi lưc lượng sản xuất chậm phục hồi, các cơ sở sản xuất, cơ sở vật
chất kỹ thuật bị chiến tranh tàn phá. Trước chiến tranh nước Nga có nền đại công
nghiệp phát triển mạnh nhưng trải qua chiến tranh, đại công nghiệp mạnh đó không
còn nữa. Phân phối lại mang nặng chủ nghĩa bình quân, những kích thích về lợi ích
kinh tế bị hạn chế tới mức tối thiểu trong toàn bộ nền kinh tế hầu như chỉ tồn tạI
hình thức kinh tế nhà nước. Tính năng động của cá nhân không được phát huy.
Tính xã hội hoá sản xuất lạI bị cản trở bởi nông nghiệp và công nghiệp tách rời
nhau. Hinh thức sở hữu nhà nước cùng với việc tổ chức quản lý kém năng động và
phân phối mang chủ nghĩa bình quân không thể phù hợp với lực lượng sản xuất
đăng nằm trong giai đoạn chậm phục hồi do bị chiến tranh tàn phá. Nhìn chung, thì
tình trạng nước Nga bây giờ chứng tỏ một đIều là những chính sách mà nước Nga
đang thực hiện là không hợp thời, không thích ứng với đIều kiện đất nước bây giờ.
Chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến đã giúp nước Nga đứng vững trong chiến
tranh nhưng điều đó không có nghĩa là nó sẽ tiếp tục đem lạI cho nước Nga sự
phục hồi và phát triển trong đIều kiện hoà bình. Thực tế đã chứng minh là việc kéo
dài thực hiện chính sách này chỉ làm cho nước Nga càng chìm sâu trong cuộc
khủng hoảng kinh tế mà thôi. Nếu muốn tiếp tục thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã


hội thì tất yếu nhà nước phải xây dựng một chinh sách mơí phù hợp với quy luật
kinh tế của thời kỳ quá độ. Chính sách đó phải khác phục được tính ỳ của nền kinh
tế nước Nga phải đưa công nghiệp và nông nhiệp trở lại với mối quan hệ trao đổi
qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, qua đó củng cố vững chắc khối liên minh công- nông. Khi
đã khắc phục được những khó khăn trong kinh tế thì giải quyết vấn đề chính trị sẽ
dễ dàng hơn.
Năm1918, Lê-nin đã đề ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng việc thực
hiện đã bị hoãn lại do chiến tranh. Giờ đây, khi chiến tranh đã qua đi và trước thực
trạng đất nước đang trong tình trạng khủng hoảng, kế hoạch đó phải được tiếp tục
thực hiện. Có thể nói, đây là giải pháp duy nhất mà nhà nước Xô-Viết có thể tiến
hành để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và tiếp tục công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đại hội X của Đảng cộng sản Bônsêvic Nga họp tư ngày 8 đến
ngày16-3-1921 đã ban hành chính sách kinh tế mới (NEP).
II. Nội dung của chính sách kinh tế mới.
Chính sách kinh tế mới là cả một cơ chế kinh tế nhằm phục hồi và phát triển
kinh tế nước Nga đồng thời củng cố vững chắc nền chuyên chinh vô sản. Nền kinh
tế có phát triển hay không sẽ quyết định sự ổn định vững chắc của hệ thống chính
trị chính sách kinh tế mới đ ược thực hiện nhằm khắc phục tình trạng kiệt quệ của
nền kinh tế nước Nga và đưa nó vào quỹ đ ạo phát triển trong thời kỳ quá đ ộ lên
Chủ Nghĩa Xã Hội. Một nền kinh tế mạnh là điều kiện để đạt được một chế đ ộ
chính trị vững vàng. Khi lợi ích kinh tế của các giai cấp được đáp ứng một cách
công bằng thì mâu thuẫn chính trị sẽ giảm bớt –đem lại sự ổn định về xã hội.
Nghiên cứu chính sách kinh tế này ta phảI đ ặt chúng trong mối quan hệ liên hoàn
với nhau
1. Thuế lương thực
Thuế lương thực là một trong những hình thức của bước quá độ chủ nghĩa từ
chủ nghĩa “ cộng sản quân sự ”, chủ nghĩa cộng sản đặc biệt do tình trạng cùng
khốn cực độ tình trạng hoang tàn và chién tranh buộc chúng ta phảI thi hành - để
bước sang chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường. Và chế độ này là một
trong những hình thức của bước quáđộ từ chủ nghĩa xã hội - với những đặc thù do


tình trạng tiểu nông chiếm ưu thế trong dân chúng tạo nên – sang chủ nghĩa cộng
sản.
Chủ nghĩa “cộng sản quân sự ” có đIều này đặc biệt là thực tế chúng ta đã lấy
ở nông dân tất cả những lương thực của họ và có khi cả những lương thực không
phải là thừa mà là một phần cần thiết cho sự sống của họ. Như vậy là để cung cấp
cho quân đội và công nhân chúng ta phảI lấy đI một phàn nguồn sông của nông
dân. Nếu không thế chúng ta đã không thể thắng được bọn địa chủ vá tư bản trong
xứ nông nghiệp tiểu nông suy tàn này và bọn đế đế quốc bên ngoàI. Nhưng cần
phải hiểu cho đúng mức độ của thành tích ấy. Chiến tranh và tình trạng hoang tàn
buộc chúng ta phảI thi hành chủ chủ nghĩa “cộng sản quân sự ”. Nó không phải là
một chính sách phù hợp với nhiêm vụ kinh tế của giai cấp vô sản. Đó là một biện
pháp tạm thời. Đối với giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chuyên chính của
mình trong một nước tiểu nông thì một chính sách đúng là phải tổ chức việc trao
đổi những sản phẩm công nghiệp cần thiết cho nông dân để lấy lúa mì. Chỉ có
chính sách ấy mới phù hợp nhiệm vụ của giai cấp vô sản chỉ có chính sách đó mới
tăng cường được cơ sở của chủ nghĩa xã hội và dưa chủ nghĩa xã hội lên chỗ toàn
thắng. Vì vậy đặt ra yêu cầu thực hiện “thuế lương thực ” để giảI quyết tình hình
thực tế của đất nước.
Đây là bước đầu tiên quan trọng trong cơ chế kinh tế của chính sách kinh tế
mới. sở dĩ như vậy bời vì trong điều kiện nước Nga bây giờ, đại công nghiệp đã
mất đi vị thế kinh tế trước đây của nó, tiểu nông nghiệp tuy khó phat huy vai trò
song không phải là ngành tạo ra khối lượng sản phẩm lớn đáp ứng nhu cầu cấp
bách của đất nước, thương nghiệp hầu như không tồn tại chỉ có nông nghiệp là
nguồn chính chủ yếu “nuôi sống” quốc gia. Mặc dù vậy ngành nông nghiệp cũng
đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề, vì vậy để khôI phục nền kinh tế cần tiến hành
khôI phục sản xuất nông nghiệp đầu tiên. có khôI phục sản xuất lương thực thì mới
cảI thiện đời sống nhân dân, trong điều kiện bây giờ lương thực là nhu cầu cấp
thiết đối với nước Nga. Theo như Lênin đã nói:”Muốn cảI thiện đời sống công
nhân thì phảI có bánh mì và nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế
quốc dân của chúng ta mà nói thì hiện nay điêù chướng ngại nhất là ở đó. nhưng
chúng ta chỉ có thể tăng thêm sức sản xuất và thu hoạch lúa mì tăng thêm sự dự trữ


và vân taqỉ nhiên liệu bằng cách cảI thiện đời sống của nông dân- bằn cach nâng
cao sức sản xuất của họ ”. Bên cạnh đó thực tế cũng cho they rằng kinh tế nông
nghiệp suy sụp một cách nghiêm trọng lực lượng sản xuất nông nghiệp bị lung lay,
lòng tin của nông dân đối với chính quyền Xô Viết bị giảm sút, tình trạng đầu cơ
tích luỹ tràn lan vì vậy việc chỉnh đốn lại nền sản xuất nông nghiệp là một yêu cầu
cấp bách. chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến kéo dài, với nội dung trưng thu
lương thực thừa đã thủ tiêu nhưng kích thích đối với nông dân, kìm hãm sự phát
triển của nông nghiệp. Do đó tất yếu nó phảI được thay thế bằng một chính sách
kinh tế mới nhằm sửa chữa nhưng sai sót mà nền kinh tế thời chiến ngây nên cho
nông nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.
Thuế lương thực được thực hiện thống nhất từ tháng 5/1923 với hình thức
hỗn hợp bằng hiện vật hoặc bằng tiền tệ (từ năm 1924 bằng hiện vật là chủ yếu).
Mức thuế được thu phân biệt đói với các hộ nông dân: Đối với bần nông thì thu
thuế bằng 1. 2% thu nhập, với trung nông thu bằng 3. 5% thu nhập, với phú nông
thu bằng 5. 6% thu nhập. Ngoài ra người nông dân có thể tự do buôn bán lúa gạo
sau khi đã nôp đủ thuế.
2. Khôi phục và phát triển sản xuất trao đổi hàng hoá giữa thành thị và
nông thôn giữa công nghiệp và nông nghiệp:
Đổi cho tiểu nông tất cả những sản phẩm mà họ cần dùng do nền đại công
nghiệp xã hội chủ nghĩa cung cấp để lấy lúa mì và nguyên liệu. Đó là chính sách
hay nhất, hợp lý nhất và đó là chính sách mà ta bắt đầu thi hành. Nhưng chúng ta
không thể đổi cho họ tất cả sản phẩm, không thể như thế đựơc và cũng không thể
làm sớm như thế được. Vậy chúng ta phảI làm thế nào. Hoặc là tìm cách ngăn cấm,
bao vây đến cùng mọi sự phát triển của mậu dịch tư nhân, không phải là của nhà
nước nghĩa là mọi sự phát triển của tư bản thương mại bước phát triển tất nhiên
phảI xảy ra hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một hành động dại dột
tự sát đối với đảng nào tìm cách áp đặt nó. Dại dột vì về phương diện kinh tế chính
sách ấy không thể nào thực hiện được; tự sát vì những đảng nào thực hiện chính
sách như thế nhất định sẽ bị “phá sản”. Trong điều kiện hiện nay không thể xoá
bỏ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và càng không thể “chỉ có một thị trường tiêu


thụ sản phẩm là nông thôn ”. Làm như vậy sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh
tế xã hội. Vậy chúng ta phải làm thế nào ?
Cải thiện đời sống của nhân dân là việc đầu tiên cần nhưng nếu chỉ dựa vào
nền nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp, thì không thể cân đối phát triển kinh tế.
Thuế lương thực được thi hành đã tạo đIều kiện cho người nông dân hăng hái tham
gia sản xuất, tạo ra ngày càng nhiều nông sản nhưng không có trao đổi hàng hoá thì
chính sách thuế lương thực sẽ tự đánh mất tác dụng kích thích lợi ích vật chất của
nó. Thuế lương thực có nghĩa là tự do bán số lương thực còn thừa (của nông dân
sau khi họ đã nộp song thuế), thì chúng ta phải cố sức hướng sự phát triển ấy của
chủ nghĩa tư bản, vì sự tự do buôn bán, tự do thương mại chính là sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Chính sách kinh tế mới với nội dung mở rộng trao đổi hàng hoá
giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn đã đáp ứng được
nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng trong công nông nghiệp nói riêng và
trong đời sống xã hội nói chung. Nó cho phép người nông dân được tự do trao đổi,
buôn bán nông sản để lấy sản phẩm công nghiệp. Nông nghiệp cần máy móc thiết
bị để tiến hành sản xuất còn lương thực cần cho đời sống của công nhân, các ngành
công nghiệp chế biến, công nghiệp thực phẩm cũng cần nguyên liệu để duy trì hoạt
động sản xuất. Những nhu cầu đó chỉ có thể được đáp ứng thông qua trao đổi hàng
hoá giữa hai ngành. Nói chung lại, trao đổi hàng hoá là cầu nối để gắn kết công
nghiệp với nông nghiệp nhằm hỗ trợ nhau thú đẩy quá trình phụ hồi và phát triển
lực lượng sản xuất. Sản xuất nông nghiệp mang tính chất hàng hoá sẽ mang lại lợi
ích cho người nông dân nhiều hơn so với sản xuất tự cung tự cấp. Trao đổi hàng
hoá mang lại sự năng động cho công nghiệp và nông nghiệp, hai ngành hỗ trợ nhau
tự cải tiến sản xuất đẻ đáp ứng nhu cầu trao đổi. trước đây, do yêu cầu phục vụ
quân đội trong chiến tranh sản phảm làm ra đều thuộc quyền quản lý và phân phối
của nhà nước trao đổi hàng hoá bị cấm. khi bước sang thời kì kiến thiết đất nước
trong hoà bình công nghiệp và nông nghiệp không chỉ đơn thuần sản xuất ra sản
phẩm mà là sản xuất hàng hoá phải tính đến sản lượng và chất lượng sản phẩm để
việc trao đổi được chấp nhận. Mặt khác yêu cầu của công cuộc khôi phục đất nước
và xây dung chủ nghĩa xã hội là công nghiệp và nông nghiệp phải gắn bó chặt chẽ
với nhau. Đây là hai ngành chủ chốt trong nền kinh tế quốc dân, nếu như mỗi phát


triển theo một hướng riêng lẻ, không ăn khớp với nhau thì hẳn là sẽ nảy sinh sự
mất cân đối, sự lệch lạc trong phát triển. Bên cạnh đó trao đổi hàng hoá được thực
hiện giữa thành thị và nông thôn đã làm sống động lại toàn độ sinh hoat xã hội thu
hẹp khoảng cách về mức sống, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân ở hai khu
vực này. Đó chính là mục đích khâu thứ hai trong chính sách kinh tế mới.
Như vậy vấn đề khôi phục và phát triển sản xuất trao đổi hàng hoá giữa công
nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn là vấn đề tất yếu phải được
thực hiện trong cơ chế kinh tế của chính sách kinh tế mới. Tuy nhiên. Từ đó lại nảy
sinh ra một vấn đề cần giải quyết. Đó là việc khôi phục phát triển hàng hoá trong
nông nghiệp sẽ kéo theo sự khôi phục và kích thích xu hướng Tư Ban chủ nghĩa.
Bàn luận về vấn đề này LêNin cho rằng đó là một tất yếu không tránh khỏi nhưng
không nên vì thế ngăn chặn sự phát triển của trao đổi hàng hoá. Xu hương Tư Bản
chủ nghĩa sẽ nhờ nó mà khôI phục, điều này là đúng. Tuy nhiên nó khôi phục ở
mức độ nào thì điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sự quản lý của nhà nước Nga. Xu
hướng này phảI được kiểm soát chặt chẽ bằng cách sử dụng hình thức kinh tế” chủ
nghĩa Tư Bản nhà nước”. Nhà nước liên kết với tư nhân trong sản xuất và bằng
những chính sách, những quy định về kinh tế hướng nó vào quỹ đạo thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Việc ngăn chặn xu hướng ấy sẽ có hại cho công cuộc khôI
phục và phát triển nền kinh tế. Để đảm bảo lợi ích của Chủ Nghĩa Xã Hội thì phải
phát triển Chủ NghĩaTư Bản nhà nước và trao đổi hàng hoá để phát triển lực lượng
sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp.
Tóm lại, việc khôi phục và mở rộng sản xuất trao đổi hàng hoá giữa công
nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn là đúng đắn và hợp lý. Nó là
một đòn bẩy quan trọng cho sự phát triển sản xuất lương thực nói riêng và sản xuất
công nông nghiệp nói chung. Đồng thời thông qua trao đổi, tác dụng của thuế
lương thực được phát huy hơn nữa. Nó thể hiện sự phù hợp với quy luật kinh tế
của thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội.
3. Tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp cho phù hợp với yêu cầu của nông
nghiệp:
Muốn trao đ ổi hàng hàng hoá đ ược thực hiện thông suốt, bên cạnh việc
khuyến khích nông dân tích cực sản xuất còn phải tính đ ến việc khôi phục công

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét