Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

Giao trinh ky thuat truyen tin ha


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Giao trinh ky thuat truyen tin ha ": http://123doc.vn/document/562718-giao-trinh-ky-thuat-truyen-tin-ha.htm


1.2. Mô hình truyền thông
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng một mô hình truyền thông đơn giản, được minh hoạ
bằng sơ đồ khối trên hình vẽ 1.a.
Mục đích cơ bản của một hệ thống truyền thông là trao đổi dữ liệu giữa 2 thực thể.
Hình vẽ 1.b biểu diễn một ví dụ đặc biệt. Đây là mô hình truyền thông giữa một máy
trạm và một máy chủ qua hệ thống mạng điện thoại công cộng (public telephone
network). Một ví dụ khác là sự trao đổi tín hiệu tiếng nói (voice signals) giữa 2 máy
điện thoại qua cùng hệ thống mạng này. Các thành phần cơ bản của mô hình này bao
gồm:
- Thiết bị nguồn (Source): Thiết bị này sẽ sinh ra dữ liệu để truyền; ví dụ như là các
máy điện thoại hay các máy tính cá nhân.
- Thiết bị truyền (Transmitter): Thông thường, dữ liệu do hệ thống thiết bị nguồn
sinh ra sẽ không được truyền trực tiếp theo dạng mà nó sinh ra. Thay vào đó, thiết bị
truyền sẽ chuyển đổi và mã hoá thông tin này bằng cách sinh ra các tín hiệu điện từ
(electro-magnetic signals) để có thể truyền đi được qua nhiều loại hệ thống truyền. Ví
dụ, một modem sẽ lấy các bit tín hiệu số từ thiết bị kết nối với nó, chẳng hạn như máy
tính cá nhân, sau đó chuyển chuỗi bit này vào trong một tín hiệu tín hiệu tương tự
(analog signal) được sử dụng để truyền đi trong hệ thống mạng điện thoại.
- 5 -
Source Transmiter Transmission
system
Receiver
Destination
Source System Destination System
Hình 1a
Worckstation Modem
Public Telephone Network
Modem
Server
Hình 1b
- Hệ thống truyền (Transmission System): Có thể là một đường truyền đơn giản hoặc
một hệ thống mạng phức tạp kết nối thiết bị nguồn và thiết bị đích.
- Thiết bị thu (Receiver): Thiết bị thu sẽ nhận tín hiệu từ hệ thống truyền và chuyển
đổi nó thành dạng mà các thiết bị đích có thể quản lý được. Ví dụ, một modem sẽ nhận
một tín hiệu tương tự đến từ một mạng hoặc một đường truyền đơn, sau đó chuyển đổi
nó thành chuỗi bit số.
- Thiết bị đích (Destination): Nhận dữ liệu từ thiết bị thu.
1.3. Các tác vụ truyền thông
Các mô tả về mô hình truyền thông trong mục 2 thực chất đã che giấu đi sự phức
tạp rất lớn về mặt kỹ thuật. Bảng 1.1 sẽ cho thấy được phạm vi thực tế của sự phức tạp
này bằng cách liệt kê các tác vụ chính phải thực hiện trong một hệ thống truyền thông.
Các tác vụ này đôi khi có thể thêm vào hoặc kết hợp lại tuy nhiên nó thể hiện những nội
dung chính mà môn học này sẽ đi qua.
Sử dụng hệ thống truyền
(Transmission system
utilization)
Ghép nối (Interfacing) Phát sinh tín hiệu (Signal
generation)
Đồng bộ hoá
(Synchronization)
Quản lý trao đổi
(Exchange Management)
Phát hiện và sửa chữa lỗi
(Error detection and
correction)
Điều khiển luồng (Flow
control)
Đánh địa chỉ
(Addressing)
Định tuyến (Routing)
Phục hồi (Recovery) Định dạng thông điệp
(Message formatting)
Bảo mật (Security)
Quản trị mạng (Network
Management)
- Sử dụng hệ thống truyền: Thường được xem như việc sử dụng một cách hiệu quả
các phương tiện truyền thông (transmission facilities) mà thông thường được chia sẻ cho
một số lượng các thiết bị truyền thông. Nhiều kỹ thuật dồn kênh (multiplexing) được sử
dụng để phân bố khả năng truyền tổng cộng (total capacity) của một môi trường truyền
cho nhiều người sử dụng. Đồng thời, cũng phải có các kỹ thuật điều khiển tắc nghẽn để
- 6 -
Bảng 1.1 Các tác vụ truyền thông
đảm bảo rằng hệ thống không bị lỗi bởi có quá nhiều các yêu cầu dịch vụ truyền thông
xảy ra đồng thời.
- Ghép nối: Để truyền thông được, một thiết bị phải được ghép nối vào một hệ thống
truyền.
- Phát sinh tín hiệu: Tất cả các dạng truyền thông được đề cập đến ở môn học này cuối
cùng đều phụ thuộc vào việc sử dụng các tín hiệu điện từ được truyền qua một môi
trường truyền. Do đó, khi ghép nối đã được thành lập, quá trình truyền thông yêu cầu
phải có tín hiệu được phát ra. Các tính chất của tín hiệu, chẳng hạn như dạng (form) và
cường độ (intensity) phải thoả mãn 2 điều kiện
+ (1): Chúng có khả năng truyền được qua hệ thống truyền.
+ (2): Thiết bị thu (receiver) phải có khả năng hiểu được (interpretable) dữ liệu.
- Đồng bộ hoá: Không chỉ có việc phát sinh tín hiệu phải phù hợp với yêu cầu của hệ
thống truyền và thiết bị thu mà tín hiệu phải được đồng bộ hoá (synchronization) giữa
thiết bị truyền và thiết bị thu. Thiết bị thu phải có khả năng xác định được khi nào tín
hiệu bắt đầu đến và kết thúc. Đồng thời thiết bị thu cũng phải biết được khoảng thời
gian (duration) của mỗi thành phần tín hiệu diễn ra bao lâu.
- Quản lý trao đổi: Ngoài vấn đề chính là quyết định đặc tính tự nhiên và thời gian của
tín hiệu, còn có một loạt các yêu cầu để truyền thông giữa hai thực thể được tập hợp lại
dưới thuật ngữ quản lý trao đổi (exchange management). Nếu dữ liệu được trao đổi theo
cả 2 chiều trong một khoảng thời gian thì cả 2 thực thể phải hợp tác hoạt động. Ví dụ,
khi 2 người tham gia vào một cuộc hội thoại qua điện thoại, một người phải quay số
(dial number) của người kia sinh ra tín hiệu với kết quả là chuông của người được gọi sẽ
kêu. Người được gọi hoàn tất một kết nối bằng cách nhấc máy. Với các thiết bị xử lý dữ
liệu, ngoài việc thiết lập kết nối, còn yêu cầu phải có các quy ước đối với cả hai bên
tham gia vào quá trình truyền thông. Các quy ước này có thể là có cho phép cả hai bên
có thể truyền đồng thời hay không, lượng dữ liệu được phép gủi đi tại một thời điểm là
bao nhiêu, định dạng của dữ liệu ra sao hoặc phải làm gì khi có tác động của các sự kiện
ngẫu nhiên chẳng hạn như lỗi sinh ra.
- Phát hiện và sửa lỗi: Hai tác vụ này có thể được ghép vào tác vụ quản lý trao đổi
nhưng tầm quan trọng của chúng đủ để tách thành các tác vụ riêng. Trong mọi hệ thống
truyền thông đều có khả năng tiềm ẩn của lỗi; các tín hiệu được truyền đi sẽ bị méo qua
khoảng cách truyền trước khi đến đích. Vấn đề phát hiện và sửa lỗi được yêu cầu đối
- 7 -
trong các ứng dụng mà không chấp nhận lỗi và đó thường là các hệ thống xử lý dữ liệu.
Ví dụ, trong quá trình truyền một file từ một máy tính này đến một máy tính khác, việc
nội dung file bị thay đổi một cách ngẫu nhiên là không thể chấp nhận được.
- Điều khiển luồng: Là kỹ thuật đảm bảo sao cho tốc độ gửi tin của thiết bị truyền
không nhanh hơn tốc độ nhận tin của thiết bị thu. Hay nói cách khác là điều khiển luồng
để đảm bảo máy thu không bỏ qua bất kỳ phần dữ liệu nào từ máy phát gửi đến do
không có dủ tài nguyên để lưu giữ. Nếu hai thiết bị hoạt động với tốc độ khác nhau,
chúng ta thường phải điều khiển ngõ ra của thiết bị tốc độ cao hơn để ngăn chặn trường
hợp tắc ngẽn trên mạng.
- Đánh địa chỉ và định tuyến: Khi phương tiện truyền thông được nhiều thiết bị chia
sẻ, một hệ thống nguồn phải xác định được một cách chính xác hệ thống đích là hệ
thống nào và chỉ có hệ thống đích đó mới có thể nhận dữ liệu. Hơn nữa, một hệ thống
truyền thông thường là một mạng với rất nhiều con đường truyền khác nhau. Vấn đề
định tuyến cho phép lựa chọn một con đường đi thích hợp trong hệ thống mạng truyền
thông.
- Phục hồi: Phục hồi là một khái niệm khác với khái niệm sửa lỗi (error correction). Các
kỹ thuật phục hồi cần thiểt trong những tình huống đang trao đổi thông tin (information
exchange), chẳng hạn như giao dịch cơ sở (base transaction) hoặc truyền file thì bị ngắt
giữa chừng do lỗi ở một nơi nào đó trong hệ thống. Kỹ thuật phục hồi phải khôi phục lại
được hành động tại trước thời điểm xảy ra lỗi hoặc ít ra cũng phải phục hồi lại trạng thái
của các hệ thống tại thời điểm trước khi bắt đầu tiến trình truyền thông.
- Định dạng thông điệp: Là sự thoả thuận trước về mẫu của dữ liệu sẽ được trao đổi
hoặc truyền giữa hai thực thể tham gia vào quá trình truyền thông. Ví dụ như cả hai bên
đều sử dụng cùng một loại mã nhị phân cho các ký tự.
- Bảo mật: Bảo mật là một yếu tố rất quan trọng trong các hệ thống truyền thông.
Người gửi dữ liệu phải được đảm bảo rằng chỉ có người nhận hợp lệ mới nhận được dữ
liệu thực sự và người nhận phải được đảm bảo rằng dữ liệu nhận được không bị sửa đổi
bởi bất cứ một thành phần nào khác người gửi.
- Quản trị mạng: Một hệ thống truyền thông là một hệ thống phức tạp mà nó không thể
tự mình tạo ra và vận hành được. Các công việc quản trị mạng cần thiết để cấu hình hệ
thống, theo dõi các trạng thái của hệ thống, tìm các điểm lỗi và quá tải hoặc tắc nghẽn,
và lập kế hoạch một cách thông minh cho việc phát triển hệ thống trong tương lai.
- 8 -
1.4. Truyền dữ liệu
Để xem xét vấn đề truyền dữ liệu một cách cụ thể, ta hãy xét ví dụ về hệ thống thư
điện tử (electronic mail).
Giả sử rằng thiết bị vào (input devide) và thiết bị truyền (transmitter) là các thành
phần của một máy tính cá nhân. Một người sử dụng của PC này muốn gửi một thông
điệp tới một người sử dụng khác, chẳng hạn như “Kế hoạch họp ngày 25 tháng 3 bị huỷ
bỏ” (m). Người sử dụng sẽ kích hoạt ứng dụng thư điện tử trên PC và nhập thông báo
này vào qua bàn phím (thiết bị vào). Chuỗi ký tự này được lưu trữ trên bộ nhớ chính. Ta
có thể xem nó như là một trình tự các bit (g) trong bộ nhớ. Máy tính cá nhân được kết
nối vào môi trường truyền, chẳng hạn như mạng nội bộ hoặc đường điện thoại bằng một
thiết bị vào ra (I/O devide) hay thiết bị truyền (transmitter) chẳng hạn như card mạng
hay modem. Dữ liệu vào được truyền tới thiết bị truyền bằng một trình tự biến đổi hiệu
điện thế (voltage shift) [g(t)] trên cáp nối giữa máy tính và thiết bị truyền. Thiết bị
truyền được kết nối trực tiếp vào môi trường truyền và chuyển đổi dòng tín hiệu vào
[g(t)] thành tín hiệu [s(t)] phù hợp để truyền được trong môi trường truyền. Quá trình
này được mô tả một cách chi tiết trong Chương 4.
Tín hiệu được truyền s(t) trên môi trường truyền sẽ chịu tác động ảnh hưởng đến
chất lượng bởi một số yếu tố trước khi đến được đích. Quá trình này sẽ được thảo luận
trong Chương 2. Do đó, tín hiệu thu được r(t) có thể khác so với tín hiệu truyền s(t).
Thiết bị thu sẽ cố gắng ước lượng tín hiệu gốc s(t) trên cơ sở r(t) và các kiến thức của nó
về môi trường truyền và sinh ra một trình tự các bit g’(t). Các bit này sẽ được gửi đến
máy tính cá nhân của người nhận, tại đó chúng được lưu trữ tạm trong bộ nhớ như là
- 9 -
Source Transmiter Transmission
system
Receiver
Destination
Hình 1.2 Mô hình truyền dữ liệu đơn giản
Text Text
Digital bit
stream
Digital bit
stream
Analog signal Analog signal
1 2 3 4 5
6
Input
information
m
Input data
g(t)
Transmitted
signal
s(t)
Received
signal
r(t)
Output data
g(t)’
Output
information
m’
một khối các bit (g). Trong nhiều trường hợp, hệ thống đích sẽ cố gắng xác định nếu có
lỗi xảy ra và nếu có thể, nó sẽ cộng tác với hệ thống nguồn để loại bỏ lỗi đối với dữ
liệu. Dữ liệu sau đó sẽ được biểu diễn cho người nhận thấy qua thiết bị ra (output
device) chẳng hạn như màn hình hoặc máy in. Thông điệp (m’) mà người nhận nhìn
thấy thường là bản copy chính xác của thông điệp gốc (m).
Bây giờ, ta hãy xét đến một cuộc hội thoại qua điện thoại. Trong trường hợp này,
đầu vào của điện thoại là một thông điệp (m) ở dạng sóng âm thanh. Sóng âm thanh
được máy điện thoại chuyển đổi thành tín hiệu điện từ có cùng tần số. Tín hiệu này sẽ
được truyền mà không có thêm sự thay đổi nào qua đường truyền điện thoại. Do đó, tín
hiệu vào s(t) và tín hiệu truyền g(t) là đồng nhất. Tín hiệu s(t) sẽ bị suy giảm chất lượng
(méo) trong quá trình truyền qua môi trường truyền, vì vậy r(t) sẽ có thể khác so với
s(t). Sau đó, r(t) được chuyển đổi ngược lại thành dạng sóng âm mà không có bất cứ
một quá trình sửa lỗi hoặc tăng cường chất lượng của tín hiệu. Do đó thông điệp m’
không là bản copy chính xác của thông điệp gốc m. Tuy nhiên, thông điệp âm thanh
nhận được thường vẫn có thể hiểu được đối với người nghe.
Từ hai ví dụ trên ta rút ra một số kết luận sau đây:
− Để truyền dữ liệu hiệu quả các chủ thể phải hiểu được thông điệp. Nơi thu
nhận phải biên dịch thông điệp 1 cách chính xác.
− Tính chính xác 1 hệ thống bị xác định và giới hạn bởi nguồn tin, môi
trường truyền và đích thu.
− Hiện tượng nhiễu có thể xảy ra trong quá trình truyền dữ liệu. Khi đó
thông điệp sẽ bị đứt đoạn trong quá trình truyền.
Một số kỹ thuật khác có liên quan đến truyền thông dữ liệu bao gồm các kỹ thuật
điều khiển liên kết dữ liệu (data-link control techniques) để điều khiển luồng dữ liệu,
phát hiện và sửa lỗi và các kỹ thuật dồn kênh làm tăng hiệu quả truyền thông cũng được
thảo luận trong các chương tiếp theo của môn học này.
1.5. Mạng truyền dữ liệu
Một mạng truyền số liệu là một mạng bao gồm các máy tính hay các hệ thống máy
tính có sự trao đổi thông tin với nhau thông qua các phương tiện truyền số liệu khác
nhau. Các phương tiện truyền này là khác nhau bởi vì bản chất tự nhiên của ứng dụng,
bởi số lượng các máy tính, bởi khoảng cách vật lý. Nó là mạng sử dụng một trong số các
- 10 -
môi trường truyền kết nối kiểu điểm - điểm (point – to – point). Dạng mạng này có thể
là một (hoặc cả hai) trong số các trường hợp sau:
- Các thiết bị có khoảng cách rất xa nhau. Chi phí giá thành cho một kết nối
chuyên dụng (dedicated link) giữa các thiết bị này là cực đắt.
- Có một tập các thiết bị, mỗi một thiết bị có thể yêu cầu một liên kết tới nhiều
thiết bị khác tại các thời điểm khác nhau. Ngoại trừ trường hợp có quá ít thiết bị,
trên thực tế không thể xây dựng được tất cả các kết nối chuyên dụng cho mỗi
một thiết bị trong một mạng kiểu như thế này.
Lời giải cho bài toán này là gắn mỗi một thiết bị vào một mạng truyền thông. Hình
3 có quan hệ với mô hình truyền thông ở Hình 1 và mô tả hai nhóm mạng truyền thông
chính được phân loại bằng phương pháp truyền thống đó là: Mạng diện rộng (WAN-
Wide Area Network) và mạng nội bộ (LAN – Local Area Network). Sự khác biệt của
hai loại mạng này nằm ở khía cạnh công nghệ và ứng dụng ngày càng bị mờ đi trong
những năm gần đây. Tuy nhiên việc phân loại theo kiểu này vẫn có ích khi tổ chức để
thảo luận.
- 11 -
Source Transmiter Transmission
system
Receiver
Destination
Source System Destination System
Local area Network
Hình 1.3
Switching Node
1.5.1. Mạng diện rộng
Theo phương pháp phân loại truyền thống, mạng diện rộng là loại mạng có phạm
vi trải rộng theo khoảng cách địa lý thường được phát triển dựa trên các hệ thống
chuyển mạch công cộng. Thông thường, một mạng WAN bao gồm một số lượng các nút
chuyển mạch được kết nối với nhau ở trong. Một cuộc truyền thông từ bất kỳ một thiết
bị nguồn nào sẽ được định tuyến thông qua các nút phía trong để đi đến thiết bị đích.
Các nút này (bao gồm cả các nút biên) không quan tâm đến nội dung của dữ liệu mà
thay vào đó, mục đích chính của chúng là cung cấp một cơ chế chuyển mạch (swiching)
để chuyển dữ liệu từ nút này đến nút khác trước khi dữ liệu đến được đích cuối cùng
của chúng.
Theo truyền thống, mạng WAN được thực hiện bằng cách dựa vào một trong hai
công nghệ là chuyển mạch kênh (circuit switching) và chuyển mạch gói (packet
swiching). Gần đây, các mạng Frame Relay và ATM đã phát triển và đóng góp những
vai trò quan trọng trong công nghệ mạng diện rộng.
 Chuyển mạch kênh (Circuit Switching)
Trong một mạng chuyển mạch kênh, một đường truyền thông xác định được thiết
lập giữa hai trạm thông qua các nút trong mạng. Con đường này một thứ tự kết nối các
liên kết vật lý giữa các nút. Trên mỗi một liên kết, một kênh logic được xác định cho kết
nối này. Dữ liệu do trạm nguồn sinh ra được truyền dọc theo con đường xác định một
cách nhanh nhất có thể. Tại mỗi một nút, dữ liệu vào được định tuyến hay chuyển mạch
vào kênh ra thích hợp mà không có thời gian trễ. Ví dụ dễ thấy nhất về mạng chuyển
mạch kênh là mạng điện thoại.
 Chuyển mạch gói (Packet Switching)
Có một cách tiếp cận khác được sử dụng là mạng chuyển mạch gói. Trong trường
hợp này, không cần thiết phải để ra trước một dung lượng của đường truyền xác định
dọc theo một con đường qua mạng. Thay vào đó, dữ liệu được gửi đi theo một trình tự
các mẩu nhỏ (small chunk) gọi là các gói. Mỗi một gói được truyền qua mạng từ nút này
đến nút khác theo nhiều con đường dẫn từ trạm nguồn đến trạm đích. Tại mỗi một nút,
khi nhận được toàn bộ gói, sau một khoảng thời gian lưu lại ngắn, gói này sẽ được tiếp
tục truyền tới nút tiếp theo. Các mạng chuyển mạch gói thông thường được sử dụng
trong truyền thông từ máy tính đến máy tính.
 Frame Relay
- 12 -
Chuyển mạch gói đã được phát triển tại thời điểm khi mà công nghệ truyền số trên
khoảng cách rất xa thường có tỷ suất gặp lỗi lớn. Kết quả là, tại mỗi một gói tin phải có
một phần thông tin nhất định dành cho việc kiểm soát và điều khiển lỗi. Phần thông tin
thêm vào này làm nảy sinh vấn đề dư thừa so với dữ liệu gốc và yêu cầu thêm thời gian
xử lý tại mỗi nút để phát hiện và sửa lỗi cũng như tại trạm đầu cuối khi nhận được gói
tin.
Với các hệ thống truyền thông tốc độ cao hiện đại ngày nay, phần thông tin thêm
vào để kiểm soát lỗi này trở thành không cần thiết và trở thành phản tác dụng (counter
productive). Nó là không cần thiết bởi vì tỷ suất lỗi của hệ thống sẽ rất nhỏ và các lỗi
nếu có sẽ được phát hiện và xử lý ở tầng logic hoạt động phía trên tầng chuyển mạch
gói tại các trạm cuối. Nó là phản tác dụng bởi vì nó chiếm giữ một phần đáng kể dung
lượng đường truyền trong khi không có ý nghĩa về mặt dữ liệu thực.
Frame Relay là dịch vụ kết nối mạng dữ liệu theo phương thức chuyển mạch tốc
độ cao, thích hợp truyền lượng dữ liệu lớn. Frame Relay có khả năng đóng gói dữ liệu,
chuyển chúng đi nhanh nhờ có chế loại bỏ, kiểm tra và hiệu chỉnh lỗi trên mạng trong
điều kiện chất lượng đường truyền tốt. Frame relay cho phép thiết lập nhiều đường kết
nối ảo thông qua một kênh vật lý duy nhất.
Công nghệ Frame Relay được phát triển để tận dụng các ưu điểm của các môi
trường truyền tốc độ cao và tỷ suất lỗi nhỏ. Trong khi các mạng chuyển mạch gói
nguyên thuỷ được thiết kế với tốc độ truyền dữ liệu ở phía người sử dụng đầu cuối là 64
Kbps thì các mạng Frame Relay được thiết kế để hoạt động một cách hiệu quả với tốc
độ truyền dữ liệu ở phía người sử dụng đầu cuối là 2 Mbps. Nhân tố chính giúp nâng
cao tốc độ truyền dữ liệu của Frame Relay là loại bỏ được phần thông tin thêm vào để
kiểm soát lỗi của công nghệ chuyển mạch gói.
Cấu trúc khung của Frame relay:
Cấu trúc khung của Frame Relay (Hình vẽ 1.4) hoàn toàn tương tự như X25 chỉ
khác là khung này có trường địa chỉ A dài hơn (2byte) và không có trường lệnh C vì ở
Frame relay không có thủ tục hỏi đáp. Tuy nhiên trên thực tế không có một cuộc nối nào
- 13 -
Hình 1.4 Cấu trúc khung của Frame Relay
hoàn hảo tới mức tuyệt đối, thu phát không có một lỗi nhỏ, vì vậy vẫn phải cần tới
trường FCS để phân tích được các Frame có lỗi cũng như theo dõi được số thứ tự của
chúng.
Cấu trúc của một khung có các phần sau:
• (1) 1 byte dành cho cờ F (flag) dẫn đầu.
• (2) 2 byte địa chỉ A (adress) để biết khung chuyển tới đâu .
• (3) Trường I (Information)dành cho dữ liệu thông tin có nhiều byte .
• (4) 2 byte cho việc kiểm tra khung - FCS (Frame Check Sequence) để phân tích
và biết được các gói thiếu, đủ, đúng, sai trên cơ sở đó trả lời cho phía phát biết.
• (5) Và cuối cùng là 1 byte cờ F để kết thúc.
Frame relay có thể chuyển nhận các khung lớn tới 4096 byte
 ATM
Công nghệ phương thức truyền bất đồng bộ (Asynchronous Transfer Mode –
ATM) đôi khi còn được gọi là chuyển tiếp tế bào (cell relay) hiện tại đang là đỉnh cao
của cuộc phát triển công nghệ từ công nghệ chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói
trong vòng 25 năm qua.
ATM có thể được xem như là một công nghệ tiến hoá từ công nghệ Frame Relay.
Điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa Frame Relay và ATM là Frame Relay sử dụng các gói
tin có kích thước không cố định (variable-length packet) gọi là các frame trong khi
ATM sử dụng các gói tin có kích thước cố định 53 bytes (fixed-length packet) được gọi
là các tế bào (cell). Bằng cách sử dụng các gói tin có kích thước cố định, ATM còn cắt
giảm nhiều hơn nữa phần thông tin thêm vào để kiểm soát và điều khiển lỗi so với
Frame Relay. Kết quả là ATM được thiết kế để làm việc ở tốc độ trải từ 10 Mbps đến
100 Mbps trong khi Frame Relay làm việc ở tốc độ 2 Mbps.
ATM có thể được xem như là một công nghệ tiến hoá từ công nghệ chuyển mạch
kênh. Với công nghệ chuyển mạch kênh, chỉ có duy nhất các kênh truyền với tốc độ
truyền cố định đối với hệ thống đầu cuối. Công nghệ ATM cho phép định nghĩa nhiều
kênh ảo (support.vnn.vn) (multiple virtual channels) có tốc độ truyền dữ liệu được xác
định một cách linh động tại thời điểm kênh được tạo ra. Bằng cách sử dụng tất cả các
kênh này, tính hiệu quả của ATM được đẩy cao đến mức cho phép cung cấp một kênh
truyền có tốc độ truyền dữ liệu cố định mặc dù nó sử dụng kỹ thuật chuyển mạch gói.
- 14 -

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét