LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu bhxh tại bhxh tỉnh hải dương": http://123doc.vn/document/1055370-mot-so-giai-phap-nham-hoan-thien-cong-tac-thu-bhxh-tai-bhxh-tinh-hai-duong.htm
Theo quy định hiện hành thì quy trình công tác thu BHXH phải trải qua
các bước tuần tự như sau:
- Người lao động và người sử dụng lao động đăng ký tham gia BHXH –
BHYT lần đầu cho người lao động. Các doanh nghiệp, cơ quan đoàn thể,
các đơn vị su quản lý các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc
có trách nhiệm đăng ký tham gia BHXH, BHYT bắt buộc với cơ quan
BHXH được phân công quản lý ở nơi cơ quan, doanh nghiệp đó đóng trụ
sở. Hồ sơ đăng ký tham gia BHXH bao gồm:
+ Công văn đăng ký tham gia BHXH,BHYT.
+ Danh sách lao động, quỹ tiền lương trích nộp BHXH (mẫu 45-BH), danh
sách đối tượng tham gia bảo hiểm y tế (mẫu 45a-BH)
+ Hồ sơ hợp pháp về đơn vị sủ dụng lao động: giấy phép hoạt động, quyết
định thành lập, bảng thanh toán tiền lương hàng tháng…
+ Hồ sơ của người lao động trong danh sách: sơ yếu lý lịch, giấy chứng
minh thư phô tô, giấy khai sinh bản sao, hợp đồng lao động, quyết định làm
việc…
- Phòng tiếp nhận và quản lý hồ sơ của cơ quan BHXH trực tiếp nhận hồ
sơ và danh sách, sau đó chuyển lên phòng thu để các cán bộ làm công tác
thu tiến hành thẩm định, thông báo kết quả thẩm định danh sách lao động
tham gia BHXH,BHYT, số tiền phải đóng hàng tháng hoặc tiến hành ký kết
hợp đồng về BHYT với cơ quan, doanh nghiệp đơn vị quản lý đối tượng
đó.
- Đơn vị quản lý đối tượng sau khi đã nhận được thông báo của bên cơ
quan BHXH thì căn cứ vào đó để tiến hành đóng BHXH , BHYT vào hàng
tháng, hàng quý, hàng năm theo sự thỏa thuận của các bên.
- Hàng tháng nếu doanh nghiệp, đơn vị ,cơ quan đoàn thể có những
biến động, có những sử thay đổi so với danh sách đã đăng ký tham gia lần
đầu(tăng lương, giảm lương, tăng lao động, giảm lao động, lao động
5
chuyển công tác, nghỉ ốm, nghỉ thai sản…) thì phải thông báo ngày với cán
bộ BHXH chuyên trách đồng thời phải lập danh sách điều chỉnh (mẫu C47-
BH) gủi đến cơ quan BHXH để kịp thời điều chỉnh.
- Hàng tháng, hàng quý cơ quan BHXH và bên quản lý đối tượng
tham gia BHXH,BHYT tiến hành đối chiếu kiểm tra số liệu về
+ Quỹ lương
+ Số lao động điều chỉnh
+ Số đã nộp, số còn nợ
- Trước ngày 30/11 hàng năm các đơn vị phải tiến hành đăng ký tham
gia BHXH, BHYT năm kế tiếp cho đối tượng, người lao động với cơ quan
BHXH thông qua:
+ Danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH
+ Danh sách đối tượng tham gia BHXH,BHYT
+ Danh sách đóng BHYT
3. Phương thức thu phí BHXH
Để thu BHXH, cơ quan BHXH có thể tiến hành thu bằng một số hình
thức sau:
- Thu phí trực tiếp từ người lao động: Phương thức này thường được áp
dụng ở các nước mà chế độ BHXH đã được phổ cập rộng rãi và nguwofi
dân sủ dụng phổ biến tài khoản các nhân để chi tiêu, chi trả các khoản trong
cuộc sống.
- Thu phí BHXH thông qua hệ thống thuế: phương thức này áp dụng
rộng rãi ở các nước có hệ thống BHXH phát triển và có chế độ thuế thu
nhập phổ biến. Bằng phương thức này khi mọi người trong xã hội đóng
thuế thu nhập cũng tức là đã đóng BHXH. Phương thức này có ưu điểm là:
hiệu quả thu phí BHXH là tối đa, khôn có tình trạng trốn đóng BHXH, chi
phí cho công tác thu BHXH rất nhỏ… nhưng nhược điểm của nó lại là làm
sai lệch bản chất của việc đóng BHXH.
6
- Thu phí gián tiếp thông qua đơn vị sử dụng lao động: Đây là phương
thức thu phí phổ biến ở nhiều nước trên thế giới hiện nay. Với hình thức
nay, hàng tháng các đơn vị sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng đầy
đủ và đúng thời gian quy định cho cơ quan BHXH. Kết quả thu có tốt hay
không phụ thuộc phần lớn vào ý thức tự giác của người sử dụng lao động .
Nhược điểm của phương thức này là phí BHXH có thể bị sử dụng sai mục
đích, tình trạng trốn đóng hoặc kéo dài thời gian đóng diễn ra phổ biến,
quyền lợi của người lao động bị đe dọa.
Ngoài ra còn có thể thu phí BHXH thông qua hệ thống các đại lý thu cấp
dưới.
4. Phương pháp và căn cứ xác định phí BHXH
Mức đóng BHXH chính là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết
định sự cân đối thu chi cho quỹ BHXH, do vậy để quỹ BHXH cân đối cần
phải có sự tính toán kỹ càng. Trong thực tế, việc xác định phí BHXH là
một nghiệp vụ khó, phức tạp đòi hỏi có nhiều phương pháp mới có thể đưa
ra một mức phí phù hợp. Với những phương pháp và căn cứ tính phí khác
nhau sẽ thu được những nhóm mức phí khác nhau.
4.1. Nhóm phương pháp không căn cứ vào thu nhập
Phương pháp này còn gọi là phương pháp xác định phí đồng đểu. mọi
đối tượng đều đóng một mức phí BHXH như nhau, mức phí đó được các cơ
quan BHXH tính toán và xác định từ trước.
Theo phương pháp này, cơ quan BHXH sẽ phân chia người lao động
thành từng nhóm dựa trên độ tuổi, giới tính, sức khỏe, ngành nghề lao động
để từ đó đưa ra mỗi mức phí phù hợp với từng nhóm người lao động.
Phương pháp này rất hiệu quả đối với những đối tượng lao động mà
thu nhập của họ khó xác định, không cụ thể.
Việc thu phí BHXH dựa trên một mức phí cụ thể đã được ấn định từ
trước đối với từng nhóm người lao động , không căn cứ vào thu nhập của
họ rất đơn giản, không gặp trở ngại gì nhưng lại không đáp ứng được nhu
7
cầu tham gia BHXH đa dạng của người lao động. khó khăn trong việc mở
rộng đối tượng tham gia BHXH nên hiệu quả thu về mặt xã hội không cao.
4.2. Nhóm phương pháp lấy thu nhập làm căn cứ để xác định phí
Khi căn cứ vào thu nhập của người lao động để xác định phí BHXH có
2 phương pháp chủ yếu:
- Một là xác định phí đồng đều cho từng mức thu nhập:
Người ta thực hiện chia mức thu nhập thành nhiều nhóm khác nhau, với
mỗi nhóm phải xác định mức thu nhập tối đa và tối thiểu. Dựa vào các
nhóm thu nhập đó, người lao động có mức thu nhập thuộc nhóm nào sẽ
đóng mức phí BHXH ứng với mức thu nhập của nhóm ấy.
Phương pháp này đơn giản nhưng lại mất công bằng giữa các mức thu
nhập thuộc các nhóm thu nhập khác nhau vì thu nhập của người lao động
phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
- Hai là xác định mức phí BHXH tỷ lệ với mức thu nhập của người lao
động: với phương pháp này, người lao động nào có mức tiền lương, tiền
công cao hơn thì sẽ đóng một mức phí BHXH lớn hơn được tính bằng tỷ lệ
phần trăm tiền lương, tiền công mà người lao động nhận được cuối tháng.
Việt Nam hiện nay đang sử dụng phương pháp này để xác định mức đóng
BHXH cho người lao động.
Trong phương pháp này, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là tiền
lương cấp bậc, chức vụ, hợp động và các khỏan phụ cấp (phụ cấp khu vực,
phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số
bảo lưu nếu có) của từng người. Các khỏan phụ cấp ngoài quy định trên
không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không tính vào tiền lương
hưởng BHXH.
Đối với các đơn vị kinh doanh đạt hiệu quả thấp, tiền lương tháng trả
cho người lao động không đủe mức lương cấp bậc, chức vụ của từng người
để đăng ký đógn BHXH thì phải đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị
thực trả nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu hiện hành.
8
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU BHXH TẠI
BHXH TỈNH HẢI DƯƠNG NĂM 2003-2007
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH VIỆT NAM VÀ BHXH
TỈNH HẢI DƯƠNG
1. Sự ra đời và phát triển của BHXH Việt Nam
Cũng như ở các nước trên thế giới, thì tại Việt Nam BHXH ra đời là
một bước ngoặt tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã
hội. Ngay từ khi ra đời, BHXH đã tỏ rõ tác dụng lớn lao của mình trong
cuộc sống. Trên thực tế thì BHXH Việt Nam ra đời từ thời kỳ pháp
thuộc,nhưng phải đến sau cách mạng tháng tám dựa trên Hiến pháp năm
1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ đã ban hành hàng
loạt các Sắc lệnh qua đó quy định về các chế độ trợ cấp, ốm đau, tai nạn
hưu trí cho công nhân viên chức Nhà nước.
Ngày 14/03/1947 và 22/05/1950 chính phủ đã ban hành hai sắc lệnh
105/SL và 77/SL quy định các chế độ ốm đau, tai nạn lao động, hưu trí và
thai sản cho công nhân viện chức Nhà nước. Sự ra đời của hai sắc lệnh này
có thể được coi là những văn bản pháp luật đầu tiên về BHXH có ý nghĩa
quan trọng làm cơ sở để ban hành Điều lệ BHXH sau này.Trong điều kiện
đất nước còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng sự ra đời của hành loạt các sắc
lệnh đã chứng tỏ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước và của Bác Hồ đối
với người lao động.
Hiến pháp năm 1959 của nước ta đã thừa nhận công nhân viên chức có
quyền được hưởng trợ cấp BHXH. Quyền này đã được cụ thể hóa trong
Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước, được
ban hành kèm theo nghị định 218/CP ngày 27/12/1961. Bên cạnh đó cùng
với nghị định 161/CP vào ngày 30/10/1964 Điều lệ đãi ngộ quân nhân
9
cũng ra đời. Đây được coi là các văn bản luật đầy đủ và toàn diện nhất về
BHXH lúc bấy giờ quy định các quyền lợi BHXH của người lao động.
Nền kinh tế chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tác động vô
cùng lớn tác động đến hoạt động của ngành lao động – thương binh và xã
hội nói chung và của lĩnh vực BHXH nói riêng.Dựa trên Hiến pháp năm
1992, cùng với sự chỉ đạo của Chính phủ bộ lao động thương binh và xã
hội đã cho triển khai cải cách hệ thống BHXH. Ngày 22/6/1993 nghị định
43/CP của chính phủ ra đời quy định về chế độ BHXH đối với người lao
động trong các thành phần kinh tế.Điểm nổi bật trong thời gian nay là đến
ngày 16/2/1995 chính phủ đã ban hành nghị định 19/CP quy định về việc
thành lập BHXH. Từ đây, BHXH đã có vị trí vô cùng quan trọng trong đời
sống kinh tế xã hội đã góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Ngay sau khi bộ luật lao động chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/1995
Chính phủ đã ban hành nghị định12/CP(26/1/1995) về điều lệ BHXH đối
với người lao động trong các thành phần kinh tế trong xã hội. Đến nghị
định 45/CP (15/7/1995) Điều lệ BHXH với sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân.
BHXH Việt Nam được thành lập theo nghị định 19/CP đã trở thành
một cơ quan có tư cách pháp nhân trực thuộc Chính phủ, được tổ chức theo
ngành dọc từ Trung Ương đến địa phương để thực hiện tất cả các nghiệp vụ
về BHXH.
Đến 29/6/2006 căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung,
chính phủ đã ban hành luật BHXH. Kể từ đây ngành BHXH đã có đủ căn
cứ cơ sở pháp lý để hoạt động và pháp triển. Luật BHXH ra đời đã giúp
các cơ quan BHXH trong cả nước phát triển góp phần ổn định về mặt thu
nhập, ổn định về cuộc sống cho công nhân viên chức, quân nhân, người lao
10
động trong các thành phần kinh tế và gia đình họ, góp phần rất lớn trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Chiến lược phát triển BHXH Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2010 có
những mục tiêu chủ yếu sau:
-Các quy định, chính sách về BHXH phải thể hiện rõ ràng BHXH là
một hệ thống các chế độ trợ cấp góp phần thay thế bù đắp một phần thu
nhập bị mất đi của người lao động( cán bộ, công chức, viên chức, quân
nhân, người lao động) khi học bị ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, hưu trí, tử tuấ nhằm bảo đảm và ổn định cuộc sống của họ và gia
đình họ thông qua một quỹ tài chính trợ cấp, quỹ này do các người lao
động và người sử dụng cùng nhau đóng góp. Bên cạnh đó, BHXH phải
phục vụ vì lợi ích vật chất và tinh thần của mọi người, vì dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, góp phần vào sự phát triển
chung của đất nước Việt Nam.
- Ngày càng chú trọng tới việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến
mọi lao động nhằm đảm bảo cho mọi người lao động đều có quyền hưởng
BHXH khi rủi ro xảy ra, mọi người đều được bảo vệ, bình đẳng, yên tâm
sống và làm việc tốt.
- Nâng cao chất lượng quản lý của bộ máy BHXH Việt Nam từ trung
ương đến địa phương trên tất cả các nghiệp vụ như thu, chi, quản lý đối
tượng chính sách, quản lý và cấp sổ thẻ, tiếp nhận hồ sơ, tiếp dân… đảm
bảo phục vụ tốt nhất cho các đối tượng tham gia.
- Triển khai và thực hiện tốt cơ chế “ một cửa”, giảm bớt nạn hách dịch,
nhiễu dân, tham nhũng của cán bộ làm bảo hiểm.
2. BHXH tỉnh Hải Dương
2.1. Lịch sử ra đời và phát triển
Bảo hiểm xã hội (BHXH ) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước, góp phần đảm bảo đời sống cho người lao động, ổn định chính trị,
11
trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc
Từ khi thành lập nhà nước đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm
đến các chế độ chính sách BHXH cho người lao động thông qua các sắc
lệnh điều lệ chủ trương. Hòa nhập với sự phát triển của thế giới nước ta
cũng ngày càng phát triển trên tất cả các mặt của đời sống xã hội kinh tế ,
từ năm 1993 cho đến nay trải qua hơn hai chục năm phát triển BHXH đã có
nhiều cải cách đổi mới rất cơ bản và ngày càng phù hợp với điều kiện kinh
tế nước ta. Ngày 13/12/1995, Chính phủ đã có nghị định số 19/CP thành
lập BHXH Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản
lý thu BHXH và thực hiện chế độ chính sách BHXH theo pháp luật của nhà
nước.Từ ngày 01/01/1995 công tác BHXH ở nước ta đã chuyển sang một
cơ chế quản lý và hoạt động hoàn toàn mới.
Cũng như các tỉnh khác, BHXH tỉnh Hải Hưng cũng được thành lập và bắt
đầu hoạt động từ ngày 15/06/1995 theo Quyết định số 20/QD-TCCB của
BHXH Việt Nam. Sau 2 năm hoạt động , thực hiện nghị quyết của Quốc
hội về việc chia tách địa giới các tỉnh, BHXH Hải Hưng được chia thành
BHXH tỉnh Hải Dương và BHXH tỉnh Hưng Yên. Ngày 16/9/1997 BHXH
tỉnh Hải Dương được thành lập theo QĐ số 1599/QĐ-TCCB của BHXH
Việt Nam. Lúc mới thành lập hết sức khó khăn về địa điểm và phương tiện
làm việc, biên chế ít, công việc mới song qua hơn 20 năm xây dựng và phát
triển hiện nay BHXH tỉnh Hải Dương đã có cơ sở vật chất đầy đủ, địa điểm
làm viêc khang trang thuận lợi.Để có được những cơ sở vật chất như hiện
nay, trong 20 năm qua các thế hệ cán bộ công chức viên chức đã sánh vai
bên cạnh ban giám đốc giúp cơ quan vượt qua bao nhiêu khó khăn thử
thách, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, năm sau cao hơn
năm trước.Hiện nay BHXH tỉnh Hải Dương được đặt tại số 7 Đường
Thanh Niên- TP Hải Dương
12
2.2 Cơ cấu tổ chức
BHXH tỉnh Hải Dương là cơ quan trực thuộc BHXH Việt Nam có chức
năng giúp Tổng giám đốc thực hiện các chính sách, chế độ BHXH và quản
lý quỹ BHXH trên địa bàn tỉnh Hải Dương
BHXH tỉnh Hải Dương chịu sự quản lý của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải
Dương
BHXH tỉnh Hải Dương có con dấu, tài khoản riêng.
Hệ thống tổ chức của BHXH tỉnh Hải Dương là:
1. BHXH thành phố Hải Dương
2. BHXH huyện Thanh hà
3. BHXH huyện Chí linh
4. BHXH huyện Cẩm Giàng
5. BHXH huyện Thanh Miện
6. BHXH huyện Kim Thành
7. BHXH huyện Ninh Giang
8. BHXH huyện Kinh Môn
9. BHXH huyện Gia Lộc
10.BHXH huyện Bình Giang
11.BHXH huyện Nam Sách
12.BHXH huyện Tứ Kỳ
Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp việc cho giám đốc BHXH tỉnh Hải Dương:
1. Phòng chế độ, chính sách
2. Phòng Kế hoạch –tài chính
3. Phòng thu
4. Phòng bảo hiểm tự nguyện
5. Phòng giám định y tế
6. Phòng tổ chức hành chính
7. Phòng công nghệ thông tin
8. Phòng Kiểm tra
9. Phòng Tiếp nhận –quản lý hồ sơ
10.Phòng cấp và quản lý sổ,thẻ
13
Cơ cấu tổ chức, bộ máy làm việc của cơ quan BHXH tỉnh Hải Dương có
thể tóm tắt bằng sơ đồ dưới đây:
Giám đốc BHXH tỉnh
Phó Giám đốcPhó Giám đốcPhó Giám đốc
Phòng chế độ, chính sách
Phòng Kế hoạch –tài chính
Phòng thu
Phòng bảo hiểm tự nguyện
Phòng giám định y tế
Phòng tổ chức hành chính
Phòng công nghệ thông tin
Phòng Kiểm tra
Phòng Tiếp nhận –quản lý hồ sơ
Phòng cấp và quản lý sổ,thẻ
BHXH tỉnh Hải Dương
BHXH các huyện
(11 huyện)
BHXH thành phố
Hải Dương
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét