Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014
Động vật không có thể xoang
80
Hệ sinh dục của sán lông lưỡng tính. Cơ quan sinh dục có cấu tạo
đơn giản (ở sán lông không ruột) hay cấu tạo phức tạp như con đực có 2
hay nhiều tuyến tinh (tớí 300 tuyến tinh), có ống thoát tinh, ống dẫn tinh
và cơ quan giao phối. Con cái có 1 hay nhiều đôi tuyến trứng, các tế bào
tuyến noãn hoàng, ống dẫn trứng và âm đạo, cuối cùng là huyệt sinh dục
nằm ở cuối cơ thể.
2.1.2 Sinh sản và phát triển
Sán lông sinh sản hữu tính: Trường hợp đơn giản nhất như ở
Convoluta tế bào sinh dục theo lỗ miệng ra ngoài (giống Ruột khoang).
Cách thụ tinh khác nhau: có thể thụ tinh trong nhưng ở mức độ thấp như ở
loài Cryptocoelis alba (nhóm Không ruột) cơ quan giao phối có thể xuyên
qua bất cứ phần nào của cơ thể, một số sán lông khác thì qua huyệt (bầu)
sinh dục (hình 5.5A). Trứng đẻ trong kén thành từng nhóm (6 – 7 chiếc)
với nhiều tế bào noãn hoàng cung cấp dinh dưỡng. Trứng phân cắt xoắn
ốc, phát triển trực tiếp hay qua ấu trùng Muller có 8 thùy phủ tiêm mao,
bơi lội tự do (hình 5.5B).
Sán lông có khả năng sinh sản vô tính bằng cách tái sinh (paratomic)
hay cắt đoạn (architomic). Một số sán lông có thể hình thành tập đoàn tạm
thời từ sự sinh sản vô tính.
Hình 5.5 Sán lông ghép đôi và ấu trùng
Muller (từ Pechenik và Dogel)
1. Mắt; 2. Hạch não; 3. Ruột; 4. Lỗ miệng; 5.
Thuỳ bơi; 6. Thuỳ trước miệng.
2.1.3 Phân loại
Sán lông chủ yếu sống
tự do, căn cứ vào mức độ
phát triển của tổ chức cơ thể
mà chia 12 bộ, trong đó có 5
bộ chủ yếu:
Bộ Không ruột
(Acoela): Cơ thể nhỏ, sống ở
biển, bám trên các cây thuỷ
sinh vùng triều, thiếu ruột,
thiếu nguyên đơn thận, hệ
thần kinh mạng lưới. Đại
diện có giống Colvoluta và
giống Chilida.
Bộ Ruột thẳng (Rhabdocoela): Cơ thể bé (0,5 – 5mm), sống ở biển
hay ở nước ngọt, bơi giỏi vì có lông bơi phát triển. Đại diện có loài
Mesostoma ehrenbergi.
Bộ Miệng lớn (Macrostomia): Sống ở biển hay nước ngọt, hệ sinh
81
dục đơn giản, ăn thịt. Đại diện có giống Microstomum.
Bộ Ruột nhiều nhánh (Polycladida): Hình lá lớn, sống ở biển, có
nhiều đặc điểm nguyên thuỷ. Đại diện có loài Planaria graffi và loài
Thysanozoon brocchii.
Bộ Ruột ba nhánh (Tricladida): Hệ sinh dục phức tạp, ruột có 3
nhánh. Đại diện có loài Dallyella viridis và loài Sán sữa (Dendrocoelum
lactum).
Ngoài ra còn có một số loài thuộc sán lông Ruột thẳng sống ký sinh
trên giáp xác, ốc, cá và rùa như Sán tua đầu hay bộ Udonellida.
2.1.4 Phát sinh chủng loại
Phát sinh chủng loại của Sán lông liên quan đến nguồn gốc của đối
xứng hai bên. Giữa Sán lông và Sứa lược có những đặc điểm giống nhau
cơ bản như di chuyển bằng lông, hệ tiêu hoá cùng một kiểu cấu tạo (có
hầu, dạ dày và các nhánh ruột bịt kín ở tận cùng, nhánh trước của dạ dày ở
Sán lông tương tự như nhánh đối miệng của Sứa lược. Một số Sán lông có
bình nang trên não giống Sứa lược. Trong phát triển của Sứa lược có mầm
của lá phôi thứ 3. Đặc điểm thống nhất của 2 nhóm trên càng được chứng
tỏ khi phát hiện ra loài Coeloplana meschnikovi và loài Ctenoplana
kowalevskyi. Coeloplana có nhiều đặc điểm của Sán lông như cơ thể phủ
đầy lông, có thể bò trên giá, ruột nhiều nhánh, không có ống vị dọc.
Ctenoplana là động vật thuộc Sán lông nhưng rất giống Sứa lược (nhất là
hình thành 8 dãy tấm lược ngắn). Khi chuyển sang đời sống bò thì lỗ
miệng nằm phía dưới, bò một hướng nên phần trước có ưu thế hơn về việc
bắt mồi do vậy lỗ miệng chuyển dần về phía trước. Phần đầu cũng là phần
tiếp xúc đầu tiên với môi trường nên ở đó giác quan phát triển và não cũng
chuyển dần về phía trước. Với đời sống bò, cơ thể chuyển dần sang đối
xứng 2 bên và mặt miệng của sứa lược - mặt bụng của Sán lông.
Nguồn gốc và mối quan hệ giữa các bộ của Sán lông chưa thật rõ
ràng. Khuynh hướng hiện nay cho rằng nhóm Không ruột là nguyên thuỷ
nhất, từ đó hình thành nên các nhóm khác. Có thể hình dung tổ tiên của
Không ruột có cấu tạo đơn giản như là ấu trùng Planula của Ruột khoang.
2.2 Lớp Sán lá Hai vật chủ (Digenea hay Trematoda)
Có khoảng 3.000 loài, phát triển có xen kẽ thế hệ, di chuyển qua ít
nhất là 2 vật chủ. Cấu tạo cơ thể có nhiều đặc điểm giống với sán lông.
kích thước thay đổi.
2.2.1 Cấu tạo cơ thể của sán trưởng thành
Cơ thể thường dẹp, hình lá, có 2 giác bám, một giác bám bụng và
một giác bám miệng. Giác bám có hình đĩa, được biến đổi từ hệ cơ. Khi
82
con vật bám vào thành ruột hay bề mặt da của
vật chủ thì chỗ tiếp xúc sẽ hình thành một
xoang. Ngoài giác bám còn có các gai cuticun
giúp cho sán bám chắc hơn. Bao ngoài cơ thể
có bao cuticun dày. Nhìn chung cấu tạo cơ thể
của sán lá hai vật chủ rất giống với sán lông
(bao cơ, như mô đệm….). Khác với sán lông
là lớp biểu mô (mô bì) có lông tiêu biến, lớp tế
bào hình thành biểu mô có lông chuyển sâu
vào trong nhu mô đệm.
Hình 5.6 Hệ bài tiết của
Sán Hai vật chủ (từ
Dogel)
1. Ống bên; 2. Các ống
dẫn vi thận,3. Bọng đái
Hệ bài tiết: Là nguyên đơn thận, gồm có
1 - 2 ống chạy dọc cơ thể. Ống dọc có nhiều
ống nhánh nhỏ chạy ra 2 bên và kết thúc là tế
bào ngọn lửa. Hai ống bài tiết đổ vào bọng đái,
ra ngoài qua lỗ bài tiết (hình 5.6).
Hệ thần kinh gồm đôi hạch não nằm trên
hầu và các đôi dây thần kinh chạy dọc, thường
là 3 đôi. Dây thần kinh bên hoặc dây thần kinh
bụng phát triển hơn cả. Giác quan tiêu giảm
(hình 5.7).
Hình 5.7 Hệ thần kinh của Distomium
caudatum (theo Grasse)
1. Dây lưng; 2. Dây bụng; 3. Não; 4. Vòng hầu;
5. Mạng vận động; 6. Mạng cảm giác; 7. Lỗ sinh
dục; 8. Lỗ bài tiết; 9. Giác bụng; 10. Lỗ miệng
Hệ tiêu hoá: Bắt đầu bằng lỗ miệng
nằm phía trước cơ thể. Miệng đổ vào hầu
có thành cơ khoẻ và có nguồn gốc từ lá
phôi ngoài. Tiếp theo là thực quản hẹp.
Ruột giữa có nguồn gốc lá phôi trong và
chia làm 2 nhánh, chạy dọc 2 bên cơ thể
và bịt kín ở tận cùng. Nhiều khi 2 nhánh
ruột lại chia làm nhánh như ở Sán lá gan
(Fasciola hepatica). Một số sán lá Hai vật
chủ có 2 nhánh ruột liên hệ với bọng đái
nằm ở cuối thân.
83
Hệ sinh dục: Sán lá hai vật chủ lưỡng tính, cấu tạo chi tiết thay đổi
tùy loài. Cơ quan sinh dục đực gồm 2 tuyến tinh lớn, hình khối không đều,
nằm gần đối xứng nhau. Từ 2 tuyến tinh có hai ống dẫn tinh nhỏ chạy về
phía trước, sau đó chập với nhau thành ống phóng tinh và tận cùng là cơ
quan giao phối nằm trước giác bụng. Cơ quan sinh dục cái gồm tuyến
trứng có hình khối tròn, kích thước nhỏ hơn tuyến tinh, từ tuyến trứng có
ống dẫn trứng ngắn đổ vào ôôtyp. Ngoài ra còn có tuyến noãn hoàng ngắn,
phình to, đổ vào ôôtyp. Tuyến nõan hòang có dạng hình hạt, màu sẫm,
nằm dọc 2 bên cơ thể. Từ ôôtyp có tử cung dài, phân nhánh, chứa đầy
trứng, chạy ngược lên phía trước và đổ vào lỗ sinh dục cái trong huyệt
sinh dục. Quá trình thụ tinh xẩy ra như sau: Noãn từ tuyến trứng được
chuyển vào ôôtyp khi giao phối, tinh trùng theo tử cung vào ootyp và gặp
noãn. Lượng tinh trùng thừa được thải ra ngoài theo ống Laurer. Tế bào
noãn hoàng theo ống dẫn vào oootyp, bao quanh trứng, tuyến vỏ hình
thành lớp vỏ cứng. Trứng sau đó chuyển ra ngoài theo tử cung. Ngoài ra
còn có thể Melit là thành phần của cơ quan sinh dục cái. Thể Melit là một
khối hình cầu, tại đây ống dẫn của thể Melit đổ vào ống dẫn trứng.
2.2.2. Vòng đời của Sán lá Hai vật chủ
Quá trình phát triển của Sán lá Hai vật chủ rất phức tạp, có hiện
tượng xen kẽ thế hệ và di chuyển vật chủ. Trứng theo mật vào ruột rồi
theo phân ra ngoài, rơi vào nước và vỏ trứng vỡ, giải phóng ra ấu trùng có
tiêm mao (miracidium). Ấu trùng miracidium có cơ thể đầy lông bao phủ,
mắt lẻ hình chữ thập, có hạch não và một đôi nguyên đơn thận và có nhiều
tế bào mầm. Sau một thời gian bơi lội tự do trong nước ấu trùng chui vào
nội quan của cơ thể ốc thuộc các giống Limnaea, Melanoides, Melania
(thường là vào gan hay tuyến sinh dục) phát triển hình thành nên ấu trùng
nang hay bào nang (sporocyst). Bào nang có hình dạng thay đổi (hình túi
hay hình trụ), mất mắt, bên trong có các tế bào mầm. Bào nang lớn dần
lên, tế bào mầm bắt đầu phân chia, hình thành nên mầm của một thế hệ
mới là ấu trùng redia. Khác với bào nang, redia có hầu, có túi ruột ngắn và
có lỗ (hình 5.8).
Bào nang sẽ vỡ ra, các redia tiếp tục hoạt động trong cơ thể ốc. Các
tế bào mầm trong cơ thể redia hình thành nên cercaria có đặc điểm giống
với trưởng thành. Cercaria rời khỏi cơ thể ốc ra ngoài, nhờ có đuôi mà có
thể hoạt động tự do trong nước. Sau một thời gian, cercaria bám vào lá cây
thuỷ sinh, rụng đuôi, kết vỏ cứng tạo thành bào xác (abdocercaria). Cũng
có khi cercaria có phần đầu kết vỏ trong suốt nằm trong nội quan của vật
chủ trung gian thứ hai trước khi vào vật chủ chính (được gọi là
metacercaria).
84
Hình 5.8 Vòng đời của sán lá gan (Fasciola
hepatica ) (theo Mattes)
Dạng cercaria hay metacercaria đều là dạng nhiễm bệnh sán lá gan ở
trâu bò. Khi trâu bò ăn cỏ, bào xác vào ruột và tại ruột trâu, bò, vỏ bào xác
sẽ bị dịch tiêu hoá của trâu bò phân huỷ, sau đó sán lá gan non được giải
phóng, theo ống mật vào gan và sống ký sinh ở đấy. Như vậy vòng đời của
sán lá gan qua 2 vật chủ khác nhau: Trâu bò hay người mang giai đoạn
trưởng thành nên được gọi là vật chủ chính, còn ốc mang giai đoạn ấu
trùng nên được gọi là vật chủ trung gian (hình 5.9).
Để hoàn thành vòng đời, các giai đoạn phát triển cần các điều kiện
nhất đinh (trứng phải có nước, ấu trùng phải gặp các loài ốc thích hợp, các
giai đoạn tiếp theo phải vào được cơ thể trâu, bò hay người. Chính vì vậy
xác suất để sán lá gan xâm nhập được vào vật chủ thích hợp và kết thúc
vòng đời là không cao, nên sán lá gan nói riêng và các loài sán lá Hai vật
chủ nói chung cần phát triển cơ quan sinh dục để hình thành nhiều trứng.
Vòng đời của sán lá gan thấy có hiện tượng xen kẽ thế hệ: sinh sản
hữu tính ở vật chủ chính và sinh sản vô tính nhờ các tế bào mầm trong cơ
85
thể ấu trùng. Đây có thể coi là hình thức sinh sản không đực
(parthenogenese) ở vật chủ trung gian. Sinh sản không đực đã làm tăng
nhanh số lượng ấu trùng để tăng xác suất gặp vật chủ. Cần chú ý khi ốc
(vật chủ trung gian) đã nhiễm ấu trùng sán lá gan thường có trong gan và
tụy rất nhiều sán lá ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
Hình 5.9 Cấu tạo ấu trùng Sán Hai vật chủ (theo Dogel)
A. Miracidium; B. Sporocyst; C. Redia; D. Cerccaria; E. Metacercaria; 1. Lông bơi; 2.
Mắt; 3. Não; 4. Nguyên đơn thận; 5. Tế bào mầm; 6. Tuyến; 7. Vòi; 8. Mầm Redia; 9.
Hầu; 10. ruột; 11. Mầm Cercaria; 12. Lỗ ra của cercaria; 13. Giác miệng và bụng; 14.
ruột; 15. Ống bài tiết; 16. Bọng đái; 17. Tuyến xuyên; 18. Đuôi; 19. Vỏ kén
2.2.3 Phân loại và tầm quan trọng
Có 2 lớp phụ dựa vào sự có mặt của giác bám bụng hay không.
Lớp phụ Aspidogastraea: Không có giác bám bụng mà chỉ có đĩa
bám ở mặt bụng, phát triển qua biến thái nhưng không có xen kẽ thế hệ.
Kích thước bé (nhỏ hơn 1mm) ký sinh ở cá trai, rùa. Loài Aspidogaster
conchicola ký sinh ở trong xoang tim của trai nước ngọt Ananodonta.
Lớp phụ: Digenea: Cơ thể có 2 giác bám (miệng và bụng). Đại diện
có các loài thường gặp là:
86
Sán lá gan lớn (Fasciola hepatica): Ký sinh trong ống mật của trâu,
bò, cừu, dê, gây bệnh nặng cho vùng chiêm trũng. Vật chủ trung gian là ốc
tai (Lynaea swihoei).
Sán lá ruột lợn hay Sán bã trầu (Fasciolopsis buski): Ký sinh trong
ruột non của lợn và ruột tá của người. Mỗi ngày đẻ 5.000 trứng, phát triển
qua 3-7 tuần, vật chủ trung gian là ốc đĩa dày (Polypilis hemisphoerula).
Kén bám trên bèo Nhật bản, rau lấp, rau muống phổ biến ở vùng đồng
bằng. Ký sinh gây bệnh tắc ruột, phù gan thiếu máu
San lá gan nhỏ (Clonorchis sinensis): Ký sinh trong ống dẫn mật của
người, mèo, chó… Người bị nhễm bệnh do ăn gỏi cá, triệu chúng phù gan,
vàng da, viêm túi mật phát triển qua 2 vật chủ trung gian là ốc
Melanoides tuberculatus hay ốc Parafossarulus striatulus và vật chủ trung
gian thứ 2 là các loài cá trong họ cá chép (chép, trắm cỏ, mè trắng…).
Bệnh khá phổ biến ở Việt Nam, vùng đồng bằng hay Tây nguyên.
Sán máu (Schistosoma): Có 3 loài phổ biến là S. haematobium (ký
sinh ở bọng đái của người gây đái ra máu); S. mansoni (ký sinh ở ruột gây
loét ruột); S. japonicum (ký sinh ở gan gây sưng gan, lách. Bệnh rất phổ
biến trên thế giới (200 triệu người bị nhiễm bệnh và hàng năm có khoảng
800.000 người bị chết).
2.3 Lớp Sán lá Một vật chủ (Monogenoidea)
Sán lá ký sinh cỡ bé (0,5 – 6mm), vật chủ là bò sát, cá, lưỡng thê,
không thay đổi vật chủ. Hiện biết khoảng 1.100 loài. Nhiều loài gây hại
cho nghề nuôi cá. Có các đặc điểm khác với sán lá Hai vật chủ như sau:
Cơ thể có đĩa bám phức tạp, thường ở phía cuối cơ thể.
Đẻ trứng, ấu trùng có móc, phát triển biến thái nhưng không xen kẽ
thế hệ và không có vật chủ trung gian. Trứng nở thành ấu trùng có móc
(onchomiracidium), sau đó bám vào vật chủ để phát triển thành trưởng
thành.
Phần lớn ký sinh ngoài (da, mang) hay ký sinh trong (xoang miệng,
xoang hầu…) của cơ thể vật chủ. Gây bệnh cho cá, có trường hợp trên một
cá chép con gặp tới 500 cá thể sán ký sinh. Các loài có ý nghĩa thuộc về họ
Dactylogyridae sống trên mang cá nước ngọt, gây bệnh cho cá giống, làm
cho cá chết hành loạt.
Ở Việt Nam hiện biết có khoảng gần 100 loài. Các giống có nhiều
loài là Dactylogyrus, Sundamonchus… Khu hệ sán lá Một vật chủ ở lưu
vực sông Hồng và lưu vực sông Cửu long khác nhau rõ rệt (chỉ có 2 loài
chung cho 2 khu vực là Quandriacanthus kobiensis và Gyrodactylus
fusci).
87
2.4 Lớp Sán dây (Cestoda)
Các động vật thuộc lớp Sán dây chịu ảnh hưởng của đời sống ký
sinh sâu sắc nhất, trưởng thành sống trong ống tiêu hoá của động vật có
xương sống, ấu trùng sống ký sinh trong nội quan của các động vật khác.
Phát triển có thay đổi vật chủ nhưng thường không có xen kẽ thế hệ.
Không có hệ tiêu hoá, nội quan thường lặp lại nhiều lần theo chiều dọc
của cơ thể. Lớp Sán dây có khoảng 3.000 loài.
2.4.1 Đặc điểm cấu tạo và sinh lý
Cơ thể dài, có thể dài tới 10m, hình dải. Cơ thể chia thành các phần
sau: Phần đầu (scolex) nhỏ là cơ quan bám, tiếp theo là phần cổ không
chia đốt là cơ quan sinh trưởng và phần thân (proglottis) gồm hàng ngàn
đốt, mỗi đốt là một phần cơ thể, các đốt thân cuối chứa sản phẩm sinh dục.
Cơ quan bám trên đầu rất đa dạng (là mép, móc, sợi, giác, chuỳ…) giúp
cho con vật có thể bám rất chắc vào thành ruột vật chủ (hình 5.10).
Hình 5.10 Các phần cơ thể của Sán dây bò
Cổ là phần sinh trưởng, các đốt cổ dài dần và phần cuối phân hoá
thành các đốt thân (tốc độ có khoảng vài đốt/ ngày). Mỗi đốt sán của phần
thân có một phần của hệ thần kinh, bài tiết và là một đơn vị sinh dục trọn
vẹn. Đốt càng già thì càng nhiều trứng và đốt cuối hầu như chỉ là một túi
trứng sẵn sàng tách khỏi cơ thể sán (hình 5.11).
88
Hình 5.11 Cấu tạo một đốt thân của Sán dây bò
Bao biểu mô cơ cấu tạo giống Sán lá, có nhu mô chìm và có phần
chất nguyên sinh hình thành các nhú lông ở mặt ngoài để tăng diện tiếp
xúc hấp thụ thức ăn. Nhờ hấp thụ thức ăn trực tiếp, sán trưởng thành rất
nhanh. Từ ấu trùng vài mm, sau 40 ngày tăng tới 5 - 6m (giống Moniezia).
Dưới lớp màng đáy là lớp cơ vòng ở ngoài, lớp cơ dọc ở trong, đôi khi còn
thêm lớp cơ vòng thứ 2 trong cùng. Ngoài ra còn có lớp cơ lưng bụng.
Nhu mô chèn giữa thành cơ thể và nội quan chứa nhiều hạt glycogen. Như
vậy ngoài bao cơ dày, thành cơ thể của sán dây còn có "hạt đá vôi" để
trung hoà axit tiêu hoá của vật chủ.
Hệ bài tiết nguyên đơn thận, gồm hai ống chạy dọc về phía bụng, đổ
chung ra ngoài qua 1 lỗ bài tiết ở cuối cơ thể.
Hệ thần kinh gồm có hệ thần kinh trung ương là một đôi hạch não
nằm ở phần đầu, có cầu nối với nhau. Từ hạch não có các dây thần kinh
đến cơ quan bám và các đôi dây thần kinh chạy dọc cơ thể. Từ trước ra
sau, giữa các dây thần kinh có cầu nối ngang. Từ các dây thần kinh dọc và
ngang có các nhánh thần kinh tạo thành mạng lưới dưới da. Giác quan của
sán dây kém phát triển bao gồm các tế bào cảm giác nằm rải rác trên bề
mặt cơ thể, tập trung nhiều hơn ở phần đầu.
Hệ sinh dục: Sán dây lưỡng tính, phần lớn sán dây có nhiều đốt và
mỗi đốt có một cơ quan sinh dục. Lấy cấu tạo hệ sinh dục của sán dây bò
(Teniarhynchus saginatus) làm ví dụ: Ở các đốt sán trưởng thành (khoảng
đốt thứ 200) có hệ sinh dục phát triển đầy đủ. Tuyến trứng không có thùy
nhỏ, huyệt sinh dục không phân bố xen kẽ. Các đốt già thường dài từ 20 –
89
30mm, tử cung phân nhánh nhiều, từ 15 đến 35 nhánh. Trứng có hình bầu
dục, có kích thước khoảng 0,3 x 0,3mm. Cơ quan sinh dục cái gồm một
đôi tuyến trứng có ống dẫn đổ vào ootyp, sau đó đổ vào tử cung. Đổ vào
ootyp còn có tuyến noãn hoàng thông với tuyến noãn hoàng lẻ và âm đạo
bắt đầu từ huyệt sinh dục là đường vào của tinh trùng. Phần ngoài cùng là
huyệt sinh dục. Ngoài ra còn có thể Melit nằm trên thành của ootyp. Tử
cung bịt kín nên khi đốt càng già, càng có nhiều trứng thì tử cung càng
phân nhiều nhánh và các nội quan khác cũng tiêu giảm dần, nhường chỗ
cho tử cung phát triển. Cơ quan sinh dục đực gồm một nhiều tuyến tinh
nằm trong nhu mô, từ tuyến tinh có các ống thoát tinh nhỏ, tập trung vào
ống dẫn tinh hướng về một bờ bên của đốt và tận cùng là cơ quan giao
phối (penis). Lỗ sinh dục đực nằm ở đáy của huyệt sinh dục. Sán dây bò
có thể sống trong ruột người tới 18 - 20 năm, mỗi năm sinh ra 600 triệu
trứng và cả cuộc đời đạt tới đạt 11 tỷ trứng.
Một số sán dây khác không chia đốt nên cơ thể chỉ có 1 hệ sinh dục,
ở một số sán dây khác cấu tạo hệ sinh dục có sai khác ít nhiều so với sán
dây bò. Ví dụ sán dây thuộc các giống Moniezia, Dipydium…có tới 2 hệ
sinh dục trong mỗi đốt.
2.4.2 Đặc điểm phát triển
Sán dây trưởng thành sống trong ống tiêu hoá của nhiều động vật
khác nhau (trâu, cừu, bò, lợn, người…), còn ấu trùng thì sống trong cơ thể
của động vật không xương sống (giun ít tơ, đĩa, chân khớp….) ở nước và
trên cạn hoặc đông vật có xương sống (cá, thú…). Vòng đời trải qua 2 - 3
vật chủ. Lấy vòng đời của sán dây lợn Taenia solium làm ví dụ. Sán dây
lợn trưởng thành sống trong ruột người, trứng theo phân ra ngoài, vào cơ
thể lợn, phát triển thành ấu trùng có 6 móc (onchosphaera) chui khỏi vỏ
trứng ra ngoài. Nhờ có móc, ấu trùng chui qua thành ruột hay dạ dày vào
mạch máu hay bạch huyết. Nhờ máu chuyển tới cơ quan ký sinh như gan,
cơ, tim phổi, não…nằm im ở đấy sau đó chuyển thành nang sán
(cysticercus), dạng hạt gạo, chứa dịch. Thành nang lõm vào trong, tận
cùng có 4 mầm giác và một vành móc bé. Đây chính là mầm scolex ẩn
trong nang, sau này sẽ phát triển thành scolex. Nang sán giữ nguyên như
vậy một vài năm, trước khi bị vật chủ chính thức (người) ăn vào. Trong cơ
thể người, dưới tác dụng của dịch tiêu hoá, vỏ nang phân huỷ và nang sán
lộn ra ngoài. Móc và giác bám trở lại vị trí bình thường và phát triển thành
sán trưởng thành.
Nang sán của sán dây có nhiều hình dạng rất khác nhau, phức tạp
nhất là nang sán nhiều đầu thứ cấp (echinococus).
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét