giống proton, chiếm xấp xỉ một nửa số trong các hạt cấu
thành hạt nhân nguyên tử.
42. Pha (Phase): Đối với sóng, vị trí của nó trong chu kỳ tại
một thời điểm: đây là số đo xem sóng đang ở đỉnh, ở hõm
hoặc ở một điểm nào khác giữa đỉnh và hõm.
43. Phản hạt (Antiparticle): Mỗi loại hạt có một phản hạt
tương ứng. Mỗi hạt chạm với phản hạt thì chúng hủy nhau
và cho thoát ra năng lượng.
44. Phóng xạ (Radioactivity): Quá trình chuyển biến tự phát
của một hạt nhân nguyên tử này thành một hạt nhân khác
45. Phổ (Spectrum): Sự tách, ví dụ, của sóng điện từ ra các
tần số thành phần.
46. Photon (Photon): Lượng tử của ánh sáng.
47. Positron (Positron): Phản hạt của electron, mang điện
tích dương.
48. Proton (Proton): Hạt mang điện tích dương, chiếm xấp xỉ
một nửa số trong các hạt cấu thành hạt nhân nguyên tử.
49. Quark (Quark) : Hạt (có điện tích) tham gia tương tác
mạnh. Mỗi proton và neutron được cấu thành bởi ba hạt
quark.
50. Radar (Radar): Một hệ thống phát sóng vô tuyến để định
vị một vật thể bằng cách đo thời gian sóng đến và phản xạ
lại từ vật đó.
51. Sao neutron (Neutron star): Một sao lạnh tồn tại nhờ lực
đẩy phát sinh vì nguyên lý loại trừ giữa các neutron.
52. Saolùn trắng (White dwarf): Sao lạnh bền tồn tại nhờ lực
đẩy phát sinh vì nguyên lý loại trừ giữa các electron.
53. Spin (Spin): Một thuộc tính nội tại của các hạt cơ bản,
gắn liền, song không đồng nhất với khái niệm quay thông
thường.
54. Sự cố, sự kiện (Event): Một điểm trong không - thời
gian, xác định bởi thời điểm và vị trí của nó.
55. Tần số (Frequency): Đối với ánh sáng, số chu kỳ trong
một giây.
56. Thời gian ảo (Imaginary time): Thời gian đo bằng số ảo.
57. Thuyết thống nhất lớn (Grand unified theory - GUT): Lý
thuyết thống nhất các tương tác điện từ, mạnh và yếu.
58. Thuyết tương đối hẹp (Special relativity): Thuyết của
Einstein dựa trên ý tưởng cho rằng các định luật khoa học
phải là như nhau đối với mọi quan sát viên chuyển động tự
do, với vận tốc bất kỳ.
59. Thuyết tương đối rộng hay tổng quát (General
relativity): Lý thuyết của Einstein dựa trên ý tưởng cho rằng
các định luật khoa học phải là như nhau đối với mọi quan sát
bất kể họ chuyển động như thế nào. Lý thuyết này giải thích
lực hấp dẫn bằng độ cong của không - thời gian 4 chiều.
60. Tia Gamma (Gamma ray): Sóng điện từ với bước sóng
rất ngắn, phát sinh trong quá trình phân rã phóng xạ, hoặc
va chạm của các hạt cơ bản.
61. Tọa độ (Coordinates): Các số dùng xác định vị trí của
một điểm trong không gian và thời gian.
62. Tổng hợp hạt nhân (Nuclear fusion): Quá trình trong đó
hai hạt nhân chạm nhau, tổng hợp thành một hạt nhân duy
nhất nặng hơn.
63. Trạng thái dừng (Stationary State): Trạng thái không
thay đổi với thời gian: Một quả cầu quay với vận tốc không
thay đổi là ở vào một trạng thái dừng bởi vì trạng thái đó là
như nhau ở mọi thời điểm, mặc dù đó không là một trạng
thái tĩnh.
64. Trọng lực (Weight): Lực tương tác của trường hấp dẫn
lên một vật, lực này tỷ lệ với khối lượng.
65. Trường (Field): Một thực thể tồn tại rộng trong không -
thời gian, ngược lại với hạt chỉ vốn tồn tại ở một điểm và
một lúc.
66. Từ trường (Magnetic Field): Trường của các lực từ, hiện
nay đã được thống nhất với điện trường thành điện - từ
trường.
67. Tỷ lệ (Proportional): “X được gọi là tỷ lệ với Y” nếu khi
nhân Y với một số nào đó, thì X cũng bị nhân với số đó.
“X được gọi là tỷ lệ nghịch với Y” nếu khi nhân Y với một số
nào đó, thì X bị chia cho số đó.
68. Vụ co lớn (Big crunch): Điểm kỳ dị chung cuộc của vũ
trụ.
69. Vụ nổ lớn (Big bang): Điểm kỳ dị ban đầu của vũ trụ.
70. Vũ trụ học (Cosmology): Môn học về toàn bộ vũ trụ
Hệ thống thuật ngữ Anh và Pháp
Khi đọc báo khoa học hay sách chuyên môn bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp,
ta thường gặp nhiều từ khó hiểu, mà ngay cả những người chuyên môn ở
lãnh vực khác cũng khó biết nó có nghĩa hay muốn nói gì. Trong y học hay
sinh học, có những từ quen thuộc như anatomy, lateral hay vertebrate, hoặc
những từ lạ hơn như nevoid, telangioma, eosinophilia nhưng cũng có thể gặp
những từ dài dòng và quái dị như hepaticocholecystenterostomy, hay
perineocolporectomyomectomy !
Ðiều khó hiểu có thể do ta không quen thuộc khái niệm được bàn đến và rất
có thể là tại vì thuật ngữ. Nhưng không nên cho rằng tất cả các thuật ngữ
khó hiểu đều là biệt ngữ và nếu suy nghĩ kỹ, ta có thể đặt ra một số câu hỏi
về những từ chuyên môn dùng trong khoa học như:
Tại sao phải dùng nhiều từ có gốc cổ ngữ, những từ không quen thuộc, khó
hiểu và có thể bị chê là cầu kỳ quá đáng hay có tính khoe trương, sính chữ ?
Tại sao các nhà khoa học cần phải có từ vựng riêng biệt của họ ?
Bản chất, đặc tính của thuật ngữ khoa học phải như thế nào ?
Nguồn gốc của chúng ở đâu ra ?
Phải chăng đó là những từ được đặt ra tùy hứng hay được cấu tạo hợp lý sau
khi đã suy nghĩ, nghiền ngẫm kỹ càng ?
Phải chăng chỉ có những nhà chuyên môn mới hiểu nỗi những từ này hay
người thường, có một ít kiến thức khoa học cũng có thể biết được ý nghĩa
của các thuật ngữ ?
Trong phần đầu của chương này, ta sẽ bàn đến những câu hỏi có tính cách
tổng quát, sau đó những câu hỏi về nguồn gốc và cách cấu tạo thuật ngữ
khoa học Anh và Pháp sẽ được xét đến cho nên một số ví dụ thuộc hai ngôn
ngữ này sẽ được đem ra dùng.
A. Thuật ngữ khoa học
1. Ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học
Ngôn ngữ là phương tiện chính để con người trao đổi thông tin và diễn tả,
tàng trử một số lớn dữ kiện và khái niệm. Trãi qua bao thế kỷ, đã có nhiều
ngôn ngữ được phát triển và kiến thức của nhân loại đã được diễn tả bằng
những ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, bình thường con người thâu thập và
truyền lại các hiểu biết bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Khi kiến thức và các khái niệm càng nhiều và có thể thay đổi, thì số từ của
mỗi ngôn ngữ càng tăng thêm. Mỗi một hiện tượng, phát minh mới, cần có
một tên để gọi và nếu có sự thay đổi thì những từ đã có cũng biến đổi theo.
Ngôn ngữ có đời sống riêng của nó và tiếp tục thay đổi chứ không phải ở
trạng thái tĩnh.
Khi được xem như một phương tiện để thông tin, ngôn ngữ đã phải tự thích
nghi để đáp ứng một số đòi hỏi cần thiết. Ngôn ngữ thông thường, còn gọi là
thường ngữ, là ngôn ngữ thường ngày mà đa số dân chúng dùng trong cuộc
sống. Trong quá trình phát triển, ngôn ngữ không bị kiểm soát và ép buộc
phát triển theo một chiều hướng nào. Các từ điển và các nhà ngôn ngữ chỉ
làm công việc báo cáo, nhận xét và đề nghị cách đọc, định nghĩa các từ.
Nhưng từ điển và học giả chỉ giúp điều chỉnh tự nguyện hay hạn chế và
không thể cấm ngôn ngữ biến hóa.
Ngôn từ thay đổi còn tùy theo địa điểm và thời gian; ở cùng nơi và cùng
thời, có thể thay đổi tùy theo người dùng. Trong thường ngữ, những đặc
điểm của ngôn ngữ được thấy rõ trong lời nói hơn trong câu văn viết.
Thường ngữ cũng là ngôn ngữ của một dân tộc, mỗi dân tộc coi nó là của
riêng mình, muốn bày tỏ bản sắc, rồi gìn giữ, bảo vệ nó.
Trái lại, ngôn ngữ dùng trong khoa học kỹ thuật có phần khác ngôn ngữ
thông thường vì khoa học có tính phổ quát. Các khoa học gia là những phần
tử siêu quốc gia: họ phải thông tin, trao đổi tài liệu không kể biên giới văn
hóa, chính trị, ngôn ngữ. Ngày nay, vì sự trao đổi kinh tế, văn hóa, quân sự,
vấn đề ngôn ngữ chung này cũng được đặt ra trong các lĩnh vực khác, ngoài
khoa học, như viễn thông, hàng không
Thuật ngữ khoa học không phải là một ngôn ngữ riêng biệt và khác hẳn dành
cho nhiều lãnh vực khác nhau. Thuật ngữ cũng có hầu hết các đặc tính của
tiếng thông thường. Tuy nhiên, thuật ngữ có phần khác ngôn ngữ thông
thường : một trong những đặc tính của thuật ngữ là tính miêu tả và định
nghĩa; ngoài ra, nhiều từ có liên hệ với nhau như thuộc một hệ thống phân
loại. Mỗi lãnh vực có những đặc điểm và thuộc tính riêng biệt của nó.
Trước hết, thuật ngữ phần lớn thuộc địa hạt của chuyên viên và người làm
nghiên cứu. Họ thường trọng tiền lệ, chuộng sự chính xác và tính nhất quán
cả trong hình thức lẫn cách dùng. Chữ viết ở đây quan trọng hơn tiếng nói.
Thuật ngữ thuộc vào địa hạt chuyên môn và được dùng có giới hạn, ngoài ra
số từ rất lớn và số người dùng không nhiều nên trong thường ngữ ta ít gặp
thuật ngữ. Nhờ vậy thuật ngữ khoa học có tính chất ổn định và rất ít thay đổi
so với thường ngữ, cả về mặt hình thái cũng như ngữ nghĩa.
Ngoài ra, thuật ngữ còn có tính cách quốc tế hơn ngôn ngữ thông thường.
Nhiều từ có dạng và nghĩa giống nhau trong nhiều ngôn ngữ khác nhau. Số
từ thuật ngữ giống nhau rất nhiều, nhiều hơn là ở trong ngôn ngữ thông
thường. Tùy theo lãnh vực, số từ giống nhau nhiều hay ít : nhiều nhất là
trong các môn toán, vật lý, thiên văn, hóa học, sau đó đến sinh vật; trái lại
trong văn chương, kinh tế, chính trị, có ít từ giống nhau hơn là trong lãnh
vực khoa học tự nhiên.
Ngoài những nhận xét chung vừa nói, sau đây là những câu hỏi thường được
đặt ra về thuật ngữ khoa học kỹ thuật và sẽ được xét đến : tại sao thuật ngữ
khoa học tránh dùng tiếng bản xứ ? khi đặt danh pháp khoa học, nên có
những tiêu chuẩn nào ?
2. Tiếng bản địa và thuật ngữ khoa học
Từ xưa tới nay, ở bất cứ nước nào cũng có người cổ võ rằng khoa học phải
được diễn đạt bằng tiếng bản xứ, tiếng mẹ đẻ, dù đó là tiếng Pháp, tiếng
Anh, Tây ban nha, Ðức, Việt nam hay Tagalog. Người nói tiếng Anh tự hỏi
tại sao người làm khoa học Anh dùng những từ như "quercus alba" thay vì
"white oak" (cây sồi trắng), hoặc "rubella scarlatinosa" thay vì "measles"
(bệnh sưởi)
Nếu dùng từ thông thường thì từ vựng khoa học sẽ đơn giản và kiến thức dễ
được thu thập hơn. Theo những người này, môn giải phẫu học chẳng hạn, có
quá nhiều từ xa lạ, cũng như trong y học, có nhiều từ khó hiểu và có nghĩa
rất bí ẩn như khi đem so sánh những từ tương đương sau đây :
baldness / calvities, alopecia or atrichia (chứng sói tóc)
thirst / dipsosis or polydipsia (chứng khát bệnh lý, chứng uống nhiều)
windpipe / trachea (khí quản, ống từ cổ họng đến cuốn phổi để cho không
khí thông vào phổi)
Ðể chống lại xu hướng trên, cũng có nhiều lý do, như ta sẽ thấy khi bàn đến
đặc tính của thuật ngữ khoa học, danh pháp và việc dùng tiếng Hy-lạp, La-
tinh trong thuật ngữ.
Sau đây là những ý kiến thường được đưa ra để chống lại quan điểm muốn
dùng tiếng bản xứ :
a) Một từ thông thường ít khi miêu tả một thực thể hay khái niệm rõ bằng
một thuật ngữ chuyên môn. Thật vậy, trong thường ngữ, liên hệ giữa tên và
sự vật không có gì là đặc biệt cả, từ nguyên của từ thường cũng không rõ
ràng, phần lớn cốt để chỉ sự vật, khái niệm hơn là để định nghĩa chúng.
Nghĩa của từ, nếu có, cũng đã trở thành mơ hồ và nếu còn thì cũng chỉ có
tính cách gợi cảm và đó là điều thuật ngữ muốn tránh.
Chẳng hạn, xem những cặp từ đồng nghĩa sau đây, thì thuật ngữ (viết
nghiêng, in đậm) có nghĩa rõ ràng và miêu tả nhiều hơn :
epidermis / scarf-skin biểu bì ( epi , ngoài ; derma , da )
pachyderm / elephant loài da dày (như voi, tê giác ) ( pachys , dày ; derma
, da )
Thỉnh thoảng, từ thông thường cũng miêu tả không kém từ chuyên môn, khó
lòng phân biệt hơn thua :
cephalalgia / headache chứng đau đầu, nhức đầu
( kephalos , đầu ; algaos , nỗi đau )
pedodontia / children's dentistry nhi nha khoa, môn học răng miệng trẻ em
( paed -, trẻ em ; odont -, răng )
Những từ thông thường nói trên, vừa miêu tả đầy đủ lại còn dễ nhớ, tuy
nhiên không phải khi nào điều này cũng đúng. Ngoài ra khi muốn diễn tả
những cấu trúc và quy trình phức tạp, từ thông thường không thích hợp. Từ
vựng thông thường còn thiếu rất nhiều từ để nói đến nhiều hiện tượng, sự
vật, khái niệm.
b) Từ thông thường ít chính xác và thường có nhiều nghĩa. Mặc dầu nghĩa
nguyên thủy có thể là rất rõ nhưng lâu ngày, một số từ đã có thêm nhiều
nghĩa phụ khác vì từ thông thường được dùng trong nhiều lãnh vực. Trong
văn chương, đó có thể là điều hay nhưng trong khoa học là điều nên tránh.
Ðây là lý do chính tại sao người làm khoa học thường tránh dùng những từ
thông thường và đã đặt từ riêng mà dùng, như vậy, những từ này sẽ được
định nghĩa chính xác hơn.
Ví dụ : speechlessness và aphasia ( pha- , nói).
Hai từ này thoạt nhìn tưởng giống nhau, nói đến " sự không nói được". Thật
ra, từ thông thường speechlessness có nhiều nghĩa: "không nói được" có thể
vì lên sân khấu quá sợ, bất ngờ hay giận dữ; cũng có thể do bẩm sinh. Trái
lại, thuật ngữ aphasia (mất ngôn ngữ, vong ngôn) chỉ chứng mất ngôn ngữ
vì não bị hư hỏng.
Ta cũng thấy nhiều thuật ngữ khoa học khi đã đi vào từ vựng thông thường
sẽ có nhiều nghĩa và gợi nhiều ý khác. Ví dụ : electrified, allergic, atomic,
vitriolic đã có những nghĩa khác xa với những từ này khi còn được dùng như
những thuật ngữ khoa học.
c) Có khi nhiều từ lại được dùng để chỉ cùng một sự việc, gây nên sự không
rõ nghĩa và tính thiếu nhất quán .
d) Từ thông thường hàm chứa nhiều nghĩa và gây xúc cảm. Ví dụ :
cheiloschisis và harelip cùng chỉ một hiện tượng (tật sứt môi). Ngoài ra
những từ thông thường có thể có nghĩa tục, đáng tránh.
e) Từ thông thường không được ổn định : nghĩa cũng như hình thái thường
thay đổi nhanh, tùy theo địa phương và theo ngay cả từng người dùng.
g) Nếu dùng từ thông thường sẽ đem lại sự hổn tạp, không có hệ thống.
h) Việc dùng hai loại từ vựng sẽ gây khó khăn cho một số người ngoại quốc.
Một số thuật ngữ đã có gốc quốc tế, ta không nên đi ngược lại chiều hướng
này, đem dùng từ thông thường.
Sau khi so sánh hai loại từ vựng, xét qua những tiêu chuẩn và chức vụ cần
có, ta thấy thuật ngữ khoa học cần có những tiêu chuẩn riêng: những từ
chính xác, phản ảnh đúng ý, có tính miêu tả, nằm trong một hệ thống phân
loại, v. v Trái lại, thường ngữ bị vướng trong những cơ cấu hoàn toàn
khác biệt, có chức vụ và cách biến hóa khác với thuật ngữ. Vì vậy thường
ngữ không cung cấp được một cơ sở thích hợp để cho thuật ngữ có thể phát
triển thỏa đáng mà theo Condillac đó là điều kiện cần thiết cho bất cứ ngành
khoa học nào. Ngoài ra, những điều kiện cần cho việc thông tin khoa học
cũng rất khác với việc thông tin bằng thường ngữ.
Ta hãy xem cách đặt tên có hệ thống và những tiêu chuẩn cần có của thuật
ngữ khoa học.
3. Những tiêu chuẩn của danh pháp khoa học
Danh pháp là đặt tên một cách có hệ thống. Có nhiều quan điểm trong việc
đặt tên: từ quan điểm gọi tên tùy hứng tới quan điểm chọn tên có mô tả, tên
đẹp và hài hòa. Có người cho rằng tên chỉ là cái nhản để phân biệt, chẳng
cần đòi hỏi gì hơn. Kẻ khác lại biện hộ cho việc đặt tên có ý nghĩa và thích
hợp. Trong những lãnh vực như toán, vật lý và luận lý, ký hiệu thường được
dùng để thay thế lời nói hay chữ viết. Trái lại, để đặt tên cho những sinh tố,
có một thời kỳ người ta đã nghĩ đến việc dùng chữ cái và số nhưng mới đây
lại dùng từ.
Không phải bất cứ lãnh vực khoa học nào cũng có tiêu chuẩn đặt danh pháp
giống nhau, mỗi ngành có nhu cầu riêng. Ngành khoa học thực nghiệm phải
dùng tên để gọi sự vật, vì vậy có nhu cầu khác với ngành khoa học lý thuyết.
Nhiều phân khoa cùng một ngành có thể có những nhu cầu khác nhau. Trong
ngành sinh học, một trong những vấn đề quan trọng của danh pháp là việc
dùng hệ thống chi, loài để phân biệt và phân loại động vật, thực vật. Trái lại,
trong y khoa, chuyện phân loại không quan trọng nhưng việc chỉ định
nguyên nhân, quá trình, phương pháp và hậu quả lại là những vấn đề chính
cần giải quyết.
Trong hóa học cũng như trong sinh học, danh pháp phải lo phân loại trong
khi ngành nha lại lo tìm từ để miêu tả những ý niệm, những điều dị thường
và các quá trình. Phần lớn những ngành của sinh học và y học, tuy có nhu
cầu khác nhau, nhưng lại có cùng một số tiêu chuẩn trong cách đặt danh
pháp.
Những tiêu chuẩn thường có tính cách phổ quát , chung cho thuật ngữ của
bất kỳ ngôn ngữ nào. Chỉ có một hay hai yêu cầu hơi riêng biệt cho thuật
ngữ Anh, và Pháp.
Tính chính xác là tính chất quan trọng nhất của thuật ngữ khoa học. Chính
xác tức là không gây nhầm lẫn. Muốn thế, chính xác hà m chứa hai đặc tính
a và b tiếp theo đây: mỗi khái niệm phải có một thuật ngữ và một thuật ngữ
chỉ dùng cho một khái niệm mvà thôi.
a. Một khái niệm phải có một thuật ngữ phản ảnh đúng ý.
Ðể chỉ một ý, một khái niệm, phải dùng một từ hay biểu thức. Từ hay biểu
thức đó phải phản ảnh đúng cái ý hay khái niệm ta muốn diễn tả.
Một danh từ khoa học không phải là bất kỳ một cái nhản nào mà còn phải
gợi rõ những chi tiết, đặc tính của khái niệm hay sự vật mà danh từ được
dùng để gọi.
Hiếm khi mà một từ có thể diễn tả đầy đủ một hiện tượng như một cấu trúc,
một sự dị thường, một quá trình, chức vụ hay hậu quả, v. v. Một từ chỉ có
thể phát họa ngắn gọn hay diễn tả vắn tắt. Vì vậy, từ đó phải cố gắng miêu tả
cho chính xác, gợi ra những đặc tính để phân biệt với những từ khác. Những
chi tiết mà ta không nắm chắc được hay không cần thiết thì không nên nói
đến. Chẳng hạn nếu nguyên nhân của một bệnh chưa được rõ thì danh từ chỉ
bệnh đó chớ nên nói đến. Theo nguyên tắc, không có sự giới hạn trong việc
miêu tả (bằng cách dùng từ ghép, có nhiều thành phần) nhưng cần phải dè
dặt, hạn chế. Nếu nói đến quá nhiều đặc tính hay nói đến những đặc tính
chưa được kiểm nghiệm thì kết quả chỉ là một từ dài dòng và chẳng bao lâu
sau nó sẽ không còn thích hợp nữa.
Có lẽ, trong khoa học, danh pháp có tính cách miêu tả lớn nhất được dùng là
danh pháp hóa và dược. Cơ sở của danh pháp hóa học là bản chất và cấu trúc
của hợp chất. Chỉ cần nhìn tên một hợp chất là ta có thể biết ngay được công
thức, biết cách cấu tạo mà trước đó chưa biết.
Một danh pháp quá miêu tả có thể là điều không hay vì ngoài ra còn có
những tiêu chuẩn khác. Thật vậy, tên dùng trong hóa học không ngắn gọn và
không tiện lợi, khó đọc vì phải kể hết những thành phần. Vì thế người ta đặt
tên viết tắt hay dùng tên có bản quyền như butethamine, cortisone, sulfa.
Ngược lại, danh pháp hóa học rất nhất quán và đồng nhất, các ngành khoa
học khác chưa có được một danh pháp như vậy.
Trong y học và sinh học, những thực thể và đặc tính mà danh từ cần miêu tả
gồm nhiều yếu tố không đồng nhất như kích cở, màu sắc, chuyển động,
nguyên nhân, hậu quả và cấp bậc Với tất cả những yếu tố đó, hai ngành
này khó lòng mà có được một danh pháp có tính miêu tả hợp lý và chính xác
như trong một lãnh vực có ít yếu tố hơn hay có yếu tố đồng nhất hơn.
Ngành thực vật cũng gặp nhiều khó khăn vì cần đặt tên cho rất nhiều giống
cây và cách tạo giống lai.
b. Tính chuyên biệt . Ngoài ra, để được chính xác, một thuật ngữ phải chỉ
một khái niệm mà thôi . Ðiều này nói đến tính riêng biệt, chuyên môn của từ.
Ðây là tính cần yếu nhất của thuật ngữ khoa học. Lý tưởng nhất là mỗi sự
vật, mỗi khái niệm có được một tên duy nhất, rõ ràng và như vậy không gây
sự nhầm lẫn. Những thuật ngữ có tính cách miêu tả thường có tính chuyên
biệt này nhưng thỉnh thoảng vì nhiều lý do, có những từ ngắn và ít miêu tả
cũng được dùng, vì vậy có thể thiếu chính xác.
Ví dụ : các từ shin (xương ống chân) và shank (xương ống cẳng) trong tiếng
Anh không phân biệt được xương trong hay xương ngoài trong hai xương
ống của cẳng chân trong khi từ tibia (xương chày) và fibula (xương mác) có
tính chuyên biệt hơn, phân biệt rõ ràng, không thể nhầm lẫn được nên đã
được chọn.
Các từ của ngôn ngữ thông thường hay thiếu đặc tính này. Trong trường hợp
những từ thiếu đặc tính chuyên môn thì có cách là nếu muốn dùng thì (tác
giả hay một cơ quan đặt danh pháp) phải định nghĩa một cách rõ ràng.
c. Tính hệ thống
Nhiều thuật ngữ có quan hệ với nhau nên khi đặt thuật ngữ phải chú ý đến
những mối quan hệ đó (gọi là quan hệ định vị). Một từ diễn tả một khái niệm
được coi như có định vị tốt nếu từ đó cho thấy rõ quan hệ của nó với những
khái niệm khác trong cùng một ngành và các ngành khác có liên hệ mật
thiết.
Muốn có những từ có định vị tốt, phải xét xem thuật ngữ đã được dùng trong
nhiều ngành liên hệ để cho những từ dùng chung trong các ngành có dạng và
nghĩa được hài hòa và thuật ngữ trong các môn phải hợp thành một toàn thể
duy nhất và có liên lạc. Như vậy, danh pháp có tính có hệ thống.
Một ngành khoa học càng phát triển thì hệ thống khái niệm càng phong phú.
Khi đặt tên, phải nghĩ đến các khái niệm trong cùng một hệ thống. Thuật
ngữ Anh và Pháp đã hệ thống hóa một số gốc từ, tiền tố và tiếp tố.
Ví dụ sau khi xét đến và đặt tên cho hiện tượng chuyển hóa (métabolism /
métabolisme), các nhà sinh học đã dùng hai tiền tố ANA- và CATA- để chỉ
hai quá trình đồng hóa (anabolism / anabolisme) và dị hóa (catabolism /
catabolisme) diễn ra đồng thời và có quan hệ hổ tương chặt chẽ.
Những khái niệm như đồng hóa và dị hóa trên đây đối lập nhau vì nói đến
tổng hợp và phân tích (sự đồng hóa để tạo nên những hợp chất phức tạp hơn,
sự dị hóa để phân nhỏ các phân tử phức tạp thành các hợp chất đơn giản
hơn) hay âm với dương (như anode và cathode), nhưng cũng có thể dùng các
khái niệm khác để phân loại như lớp , hạng , loài , loại , thể , thức , lối kiểu ,
hình dạng Cho khái niệm này một cái tên, tất nhiên không thể không nghĩ
đến những khái niệm khác cùng chung một hệ thống.
Những khái niệm gần nhau, có liên quan chặt chẽ cũng có thể họp thành
nhóm, mỗi nhóm cũng có thể thành một "hệ thống" khái niệm.
Ví dụ, trong tiếng Pháp, khái niệm hình dạng tập hợp những dạng vi khuẩn:
coques, khuẩn tròn; bacilles, khuẩn que,
rồi còn phân biệt theo cách chúng kết hợp với nhau như:
diplocoques,song cầu khuẩn; streptocoques, khuẩn cầu chuỗi;
staphylocoques, khuẩn cầu chùm
Tên của khuẩn cũng được hệ thống hóa tùy theo cách mọc lông roi như:
gymno-triches, loại khuẩn trần, không lông;
mono-triches, lông đơn;
lopho-triches, có túm lông đầu;
amphi-triches, có hai túm lông hai đầu;
hay péri-triches, có lông quanh
Phép gọi tên kép (danh pháp lưỡng nôm) hay tên có ba thành phần của sinh
học để chỉ động vật và thực vật là danh pháp có định vị tốt. Ngay cả trong
những lĩnh vực mà tên chỉ có một từ, cũng nên phỏng theo cách đặt tên theo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét