Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

Vận dụng thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty Deloitte Việt Nam thực hiện

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Từ ý nghĩa quan trọng của thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong
kiểm toán báo cáo tài chính và thực tế thực hiện thủ tục kiểm toán để phát hiện
gian lận trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Deloitte Việt Nam, Luận
văn muốn làm rõ được lý luận về thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong
kiểm toán báo cáo tài chính và xem xét mối quan hệ giữa phương pháp kiểm
toán với phương pháp điều tra hình sự để vận dụng hợp lý được các phương
pháp điều tra hình sự vào hoạt động kiểm toán để phát hiện gian lận. Hơn nữa,
Luận văn cũng muốn tìm hiểu quy trình thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận
trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Deloitte Việt Nam. Từ đó, em đã
có cơ sở để so sánh giữa thực tế và lý thuyết và có cơ sở để đưa ra những kiến
nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình thủ tục kiểm toán để phát hiện gian
lận trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Deloitte Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và sử dụng các phương pháp kỹ thuật như phương pháp toán
học, phương pháp tư duy lôgic, phương pháp diễn giải, quy nạp, phương pháp
so sánh và phân tích để tổng hợp về lý luận và thực tiễn đánh giá trọng yếu và
rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Ngoài ra, đề tài cũng sử
dụng phương pháp sơ đồ, bảng biểu để làm rõ và bổ sung thêm cho lý luận
cũng như thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán
Báo cáo tài chính.
Hướng đóng góp của đề tài
Đề tài đã hệ thống hóa lý luận về quy trình thủ tục kiểm toán để phát
hiện gian lận trong kiểm toán báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, đề tài đã mô tả
được thực trạng thực hiện thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm
toán báo cáo tài chính tại Công ty Deloitte Việt Nam. Từ đó, đề tài đã đưa ra
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
được nhận xét cho những vấn đề còn tồn tại và phương hướng nhằm hoàn
thiện quy trình thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong kiểm toán báo
cáo tài chính tại Công ty Deloitte Việt Nam.
Nội dung của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm ba chương sau:
Phần 1: Lý luận chung về thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận
trong kiểm toán báo cáo tài chính
Phần 2: Vận dụng thủ tục kiểm toán để phát hiện gian lận trong
kiểm toán báo cáo tài chính do công ty Deloitte Việt Nam thực hiện
Phần 3: Nhận xét, kiến nghị và giải pháp hoàn thiện thủ tục kiểm
toán để phát hiện gian lận trong kiểm toán báo cáo tài chính do công ty
Deloitte Việt Nam thực hiện
Em xin chân thành cám ơn thầy cô, đặc biệt là GS.TS Nguyễn Quang
Quynh, cùng các anh chị tại Deloitte Việt Nam đã có những hướng dẫn chỉ
bảo tận tình cho em để em có thể hoàn thành tốt Luận văn của mình.
Sinh viên

Ngô Thanh Hải
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
PHẦN 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỦ TỤC KIỂM TOÁN ĐỂ PHÁT HIỆN
GIAN LẬN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Thủ tục kiểm toán trong hệ thống kiểm toán
1.1.1. Hệ thống kiểm toán
1.1.1.1. Định nghĩa kiểm toán
Ở Việt nam, thuật ngữ kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói
riêng mới xuất hiện từ những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Trên thế
giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu cầu xác định tính
trung thực, độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính, kế toán và thực
trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Trải qua quá trình phát
triển của kiểm toán, có nhiều định nghĩa kiểm toán đã được đưa ra đứng trên
3 quan điểm khác nhau. Đó có thể là quan điểm rằng kiểm toán đồng nghĩa
với kiểm tra kế toán; hoặc kiểm toán là hoạt động đáp ứng nhu cầu của cơ chế
thị trường, xác minh và bày tỏ ý kiến về các bảng khai tài chính; hoặc kiểm
toán có phạm vi rất rộng không chỉ đánh giá tính tuân thủ các quy định, độ tin
cậy của thông tin mà còn cả tính hiệu quả và hiệu năng của hoạt động quản lý.
Các quan điểm khác nhau này không hoàn toàn đối lập với nhau mà phản ánh
quá trình phát triển của cả thực tiễn và lý luận kiểm toán.
Có thể dẫn ra sau đây một số định nghĩa về kiểm toán thường được sử
dụng. Trong Lời mở đầu “ Giải thích các chuẩn mực kiểm toán “ của Vương
quốc Anh, định nghĩa “kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến
những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ
nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩ vụ pháp
định có liên quan.”
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Theo các nhà kiểm toán của Cộng Hoà Pháp:” kiểm toán là việc nghiên
cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập,
đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những
khoản mục đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính thực tế, không che dấu
sự gian lận và chứng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định”.
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International
Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên
độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”
Các định nghĩa này tuy cách diễn đạt và từ ngữ khác nhau song chúng
đều thống nhất ở những nội dung cơ bản: Chức năng của kiểm toán là xác
minh và bày tỏ ý kiến. Chủ thể kiểm toán là các kiểm toán viên độc lập, có
nghiệp vụ. Cơ sở thực hiện kiểm toán là những luật định, hay chuẩn mực
chung. Mục tiêu kiểm toán có thể hướng vào những mục tiêu cụ thể khác
nhau như tính trung thực của thông tin ( information audit), tính quy tắc trong
việc thực hiện các nghiệp vụ ( regularity autdit), tính hiệu quả (efficiency
audit) hay tính hiệu năng ( effectiveness audit) của hoạt động. Với chức năng
và mục tiêu trên, đối tượng kiểm toán chủ yếu là thực trạng hoạt động tài
chính mà trực tiếp là các bảng khai tài chính của khách thể kiểm toán - một tổ
chức hay một thực thể kinh tế. Như vậy trong mọi trường hợp cần tận dụng
những tài liệu kế toán như những bằng chứng đã có làm đối tượng trực tiếp
của kiểm toán ( kiểm tra chứng từ). Trong những trường hợp thiếu bằng
chứng trực tiếp này, kiểm toán cần sử dụng những phương pháp kĩ thuật để
tạo lập các bằng chứng kiểm toán ( kiểm tra ngoài chứng từ).
Ngoài ra có một điều phải khẳng định ở đây, đó là kiểm toán là một hoạt
động độc lập, không đồng nhất với kiểm tra kế toán, thuộc tính vốn có của kế
toán. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm phát triển của phép biện
chứng duy vật. “Nếu một hình thái vận động là do một hình thái khác phát
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
triển lên thì những phát triển của nó tức là những nghành khoa học khác nhau
cũng từ một nghành này phát triển ra một nghành khác tất yếu” (F.
Anghen :”Phương pháp biện chứng tự nhiên”. Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội,
1963). Kiểm toán lẽ đương nhiên là tách ra khỏi kế toán thành một nghành
khoa học độc lập với đối tượng, phương pháp riêng có của nó tất nhiên vẫn có
mối quan hệ tương đối mật thiết với khoa học kế toán.
Từ những trình bày trên có thể sử dụng định nghĩa mang tính khái quát
về kiểm toán sau đây : “ Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng
hoạt động cần được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kĩ thuật của kiểm
toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ
nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực”.
(trích từ Lý thuyết kiểm toán của GS.TS Nguyễn Quang Quynh, Đại học Kinh
tế quốc dân, nhà xuất bản tài chính-2006).
Trong phạm vi đề tài này, chỉ xét đến kiểm toán Báo cáo tài chính, do đó
có thể sử dụng khái niệm trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin
A.Rens và James K.Loebbecker đã định nghĩa: “ Kiểm toán là quá trình các
chuyên gia độc lập và có nghiệp vụ thu thập và đánh giá các bằng chứng về
các thông tin có thể lượng hoá được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác
nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực
đã được thiết lập”.
1.1.1.2.Các yếu tố cấu thành hệ thống phương pháp kiểm toán
Như mọi nghành khoa học khác, hệ thống phương pháp kiểm toán cũng
xuất phát từ cơ sở phương pháp luận chung ( duy vật biện chứng), phương
pháp kĩ thuật chung và từ đặc điểm đối tượng nghiên cứu của mình để hình
thành những phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến của mình phù hợp với
đối tượng kiểm toán.
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối tượng của kiểm toán phân chia làm hai phần. Một là thực trạng hoạt
động tài chính được phản ánh trong tài liệu kế toán và hai là phần chưa được
phản ánh kể cả là phản ánh chưa trung thực ( kể cả gian lận và sai sót) trong tài
liệu này. Đối với phần thứ nhất, việc xác minh và bày tỏ ý kiến đã có cơ sở chứng
minh là các tài liệu kế toán ( kể cả các tài liệu lưu giữ tại khách hàng). Do vậy,
kiểm toán có thể kế thừa cơ sở phương pháp kế toán, phân tích để xây dựng
phương pháp riêng của mình như: Kiểm toán cân đối kế toán, đối chiếu các chỉ
tiêu theo quan hệ trực tiếp hoặc lôgic. Đối với phần thứ hai ( ngoài chứng từ),
kiểm toán chưa có cơ sở dữ liệu và do đó cần có phương pháp thích hợp để có
bằng chứng kiểm toán: Điều tra, kiểm kê, hay thực nghiệm. Như vậy hệ thống
phương pháp kiểm toán bao gồm 2 phân hệ rõ rệt. Loại phương pháp thứ nhất gọi
là các phương pháp kiểm toán chứng từ. Loại thứ hai là các phương pháp kiểm
toán ngoài chứng từ.
*Phương pháp kiểm toán chứng từ bao gồm :
• Kiểm toán các cân đối kế toán: Là phương pháp dựa trên các cân đối kế
toán và các cân đối khác để kiểm toán các quan hệ nội tại của các yếu tố
cấu thành các quan hệ đó.
• Đối chiếu trực tiếp : là đối chiếu một chỉ tiêu trên các nguồn tài liệu
khác nhau.
• Đối chiếu lôgic: là việc nghiên cứu các mối liên hệ giữa các chỉ tiêu có
quan hệ với nhau.
*Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ bao gồm:
• Kiểm kê: là việc kiểm tra tại chỗ các đối tượng kiểm toán.
• Điều tra : là dùng các cách khác nhau để tiếp cận và đánh giá đối tượng
kiểm toán.
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
• Thực nghiệm: Là việc tái diễn các hoạt động, nghiệp vụ để xác minh lại
kết quả của một quá trình, một sự việc đã qua
Thực chất việc thực hiện kiểm toán là kiểm toán viên vận dụng các phương
pháp kỹ thuật kiểm toán này theo hướng chi tiết hoặc kết hợp để thu thập các bằng
chứng kiểm toán thích hợp và đầy đủ và tiến hành đánh giá chúng. Trong kiểm
toán tài chính, thường vận dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán nói trên dưới
dạng các phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán như: kiểm kê, lấy xác nhân,
xác minh tài liệu, quan sát, phỏng vấn, tính toán, phân tích.
1.1.1.3.Quan hệ giữa phương pháp kiểm toán với phương pháp điều tra hình sự
Theo từ điển Tiếng Việt của Trung tâm khoa học xã hội nhân văn quốc gia,
khái niệm hình sự được hiểu là việc trừng trị những tội xâm phạm nghiêm trọng
đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội.
Còn điều tra hình sự, theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, là
hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm của người có
hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện
phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và ngăn ngừa. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội
hoặc vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị
can. Mọi hoạt động điều tra phải tuân theo pháp luật, chấp hành các nguyên
tắc và thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan và cá nhân có thẩm quyền tiến hành các biện pháp điều
tra hình sự được quy định cụ thể tại Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự ngày
17.4.1989 ( hiện đã được thay thế bằng Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
ngày 20.08.2004)
Theo Sổ tay điều tra các tội phạm về trật tự xã hội - GS.TS Nguyễn Huy
Thuật- Nhà xuất bản Công An nhân dân-2006, khái niệm điều tra vụ án hình sự
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
được hiểu là hoạt động điều tra của những cơ quan điều tra và những cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến
hành theo trình tự tố tụng hình sự, nhằm chứng minh sự thật của vụ án theo yêu
cầu của pháp luật. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của quá trình tố
tụng hình sự, phục vụ cho việc thực hiện mục đích chung của quá trình tố tụng
hình sự đó là “ Phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”.( Điều 1-
Bộ Luật Tố tụng hình sự ). Như vậy, có thể thấy mục đích của điều tra vụ án hình
sự là chứng minh sự thật của vụ án theo yêu cầu của pháp luật. Chỉ sau khi chứng
minh sự thật của vụ án thì mới có đủ căn cứ để khẳng định một người nào đó có
tội hay không có tội đối với vụ án đã xẩy ra và áp dụng hình phạt công bằng hay
xoá tội cho người đó. Điều này hoàn toàn tương đồng với việc xác minh và bày tỏ
ý kiến trong hoạt động kiểm toán.
Cho nên có thể nói, phương pháp kiểm toán và phương pháp điều tra hình sự
có sự giống nhau về nhất định về nội dung bên cạnh những điểm khác do đối
tượng mà mỗi phương pháp hướng tới quy định. Lý do của sự giống nhau này là
vì về phương diện nhận thức, cũng như kiểm toán, điều tra vụ án hình sự là một
dạng hoạt động nhận thức. Cơ sở phương pháp luận của kiểm toán và điều tra
hình sự đều là phép biện chứng duy vật . Quan điểm biện chứng không những chỉ
ra tính lôgic của quá trình nhận thức mà còn vạch ra các mối quan hệ và quy luật
vận động của mọi sự vật, hiện tượng. Trong quan hệ với quá trình nhận thức, tính
biện chứng thể hiện ở quan hệ lôgic từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng,
từ cảm tính đến lý tính với những bước cụ thể từ quan sát, sao chụp đến phán
đoán, suy lý… Mỗi bước nhận thức này được cụ thể hoá thành những phương
pháp với những hình thức vật chất xác định để nhận thức đúng và rõ ràng trong
quá trình xác minh và bày tỏ ý kiến của hoạt động kiểm toán cũng như quá trình
chứng minh sự thật trong điều tra hình sự.
Trong quan hệ với phương pháp kiểm toán và phương pháp điều tra hình sự,
các phạm trù và các quy luật của mối quan hệ và sự vận động cần quan tâm, quán
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
triệt đầy đủ các mối quan hệ và quy luật khách quan
Mọi sự vật và hiện tượng cũng như giữa các mặt của sự vật hiện tượng đó có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Muốn xác minh, phán định về một mặt hay một sự
vật, hiện tượng nào đó phải xem xét nó trong mối quan hệ biện chứng với các mặt,
các sự vật các hiện tượng khác có liên quan.
Mọi sự vật và hiện tượng đều vận động, vận động là tuyệt đối, đứng im là
tương đối. Nghiên cứu và phán xét mọi sự vật, hiện tượng tại thời điểm kiểm toán
cũng như điều tra hình sự đều phải có phương pháp nghiên cứu chúng trong trạng
thái động.
Nội tại mỗi sự vật hiện tượng đều có tính thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập. Thống nhất là tương đối, mâu thuẫn là tuyệt đối, và đấu tranh giữa
các mặt đối lập sẽ phá vỡ sự thống nhất tạm thời để tạo nên sự thống nhất mới. Ví
dụ trong kiểm toán, mối quan hệ này không chỉ là cơ sở cho phương pháp kiểm
tra cân đối về lượng giữa tài sản với nguồn hình thành, giữa doanh số với thu nhập
và chi phí, giữa số phát sinh Nợ và số phát sinh Có… mà còn phải xem xét về chất
của các mối liên hệ.
Mỗi sự vật hiện tượng đều có bản chất riêng và được biểu hiện dưới những
hình thức cụ thể. Việc nghiên cứu và kết luận về bản chất sự vật, hiện tượng phải
xem xét trên những hình thức biểu hiện khác nhau, ở tính phổ biến của chúng. Do
đó, các phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến của kiểm toán và các phương
pháp điều tra hình sự không thể tách rời những quy luật và mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, giữa cái đơn nhất và cái phổ biến, giữa sự vận động và tính
“không mất đi” của vật chất trong quá trình vận động.
Tuy nhiên, đối tượng của điều tra hình sự là các tội xâm phạm đến an ninh
quốc gia, trật tự xã hội nên nó liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống từ
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính trị, xã hội, kinh tế, văn hoá… Trong khi đó, hoạt động kiểm toán đối tượng
chủ yếu là thực trạng hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Do đó có thể nói, đối
tượng của hoạt động kiểm toán chỉ là một phần nội dung mà hoạt động điều tra
hình sự hướng tới. Điều này ảnh hưởng tới phương pháp được sử dụng của hai
lĩnh vực.
Cụ thể, phương pháp trong điều tra hình sự rộng hơn, liên quan tới nhiều lĩnh
vực, nhiều khoa học hơn so với kiểm toán. Do đối tượng kiểm toán có quan hệ
chặt chẽ với đối tượng của kế toán, của phân tích kinh doanh nên kỹ thuật
kiểm toán không thể tách rời các phương pháp kĩ thuật của các khoa học này.
Ngoài ra kiểm toán còn có quan hệ với các phương pháp của các khoa học
khác, như với phương pháp toán học, trực tiếp là các phương pháp chọn mẫu,
ước lượng khả năng sai sót cùng các mối quan hệ tương quan trong việc xem
xét, dự báo các mối liên hệ cụ thể. Còn điều tra hình sự, do liên quan tới nhiều
lĩnh vực của đời sống con người, từ các lĩnh vực tự nhiên đến xã hội, cho nên
các phương pháp được sử dụng hết sức đa dạng, đó là sự kết hợp giữa các
biện pháp kĩ thuật hình sự với toán học, xã hội học, lôgic học, tâm lý học…
Theo sách Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự - TS. Đỗ Văn
Đương – Nhà xuất bản tư pháp 2006, có các nhóm phương pháp kĩ thuật điều
tra hình sự được sử dụng trong thu thập chứng cứ sau đây:
• Phương pháp quan sát và môt tả là phương pháp chủ yếu để phát hiện
ghi nhận các dấu hiệu bề ngoài của đối tượng nhận thức
• Phương pháp khoa học kĩ thuật để phát hiện và ghi nhận các dấu vết
vật chất và trạng thái bên ngoài của hành vi phạm tội gắn liền với sử
dụng các phương tiện kĩ thuật như chụp ảnh, quay phim.
• Phương pháp toán học dùng để đo đạc và tính toán được áp dụng để
thu nhận đặc tính về số lượng của đối tượng nghiên cứu
Ngô Thanh Hải Kiểm toán 46B
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét