Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

Nâng cao chất lượng tín dụng tiêu dùng tại Sở Giao Dịch I Ngân Hàng Đầu Tư Và Phát Triển Việt Nam




Ngân quỹ của một ngân hàng bao gồm: Tiền mặt tại két, tiền gửi tại ngân hàng
khác (gồm tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước, tại các ngân hàng và tổ chức tín dụng
khác). Đây là những khoản mục không sinh lời, được giữ chủ yếu nhằm đáp ứng yêu
cầu chi trả cho khách hàng gửi tiền, yêu cầu thanh toán bù trừ, mua dịch vụ và yêu cầu
dự trữ theo luật định. Quy mô của những khoản này có xu hướng giảm cùng với sự phát
triển của các hệ thống kế toán, thanh toán và trình độ quản lý của ngân hàng.
 Cho vay:
Cho vay là loại tài sản chủ yếu trong tổng danh mục tài sản của các ngân hàng,
thường chiếm trên 70% tổng tài sản của các ngân hàng và cũng mang lại nguồn thu
nhập chính cho ngân hàng. Khoản mục cho vay hình thành khi ngân hàng cho khách
hàng vay một khoản vốn và đổi lại được khách hàng trao cho một giấy nhận nợ và cam
kết trả cả gốc và lãi trong một thời hạn xác định.
Nhìn chung, cho vay là loại tài sản mang tính rủi ro cao nhất, vì vậy việc tìm kiếm
và lựa chọn khách hàng phù hợp công việc cần thiết và đòi hỏi nhiều chi phí của ngân
hàng.
 Đầu tư:
Hoạt động cho vay tuy mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng hàm
chứa nhiều rủi ro, vì vậy các ngân hàng còn sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư, một
mặt sẽ phân tán được rủi ro, mặt khác các hoạt động đầu tư cũng mang lại một nguồn
thu nhập đáng kể cho ngân hàng và có thể thực hiện được mục tiêu thâm nhập thị
trường. Các ngân hàng có thể thực hiện đầu tư vào chứng khoán, hùn vốn vào các doanh
nghiệp để trở thành thành viên, đầu tư vào các dự án
 Các hoạt động sử dụng vốn khác:
Các hoạt động khác ở đây bao gồm: Quảng cáo, khuyếch trương sản phẩm, các
chương trình tài trợ phi lợi nhuận các hoạt động này mang tính chất quảng bá, tạo hình
ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng.

1. 1. 2. 3. Hoạt động khác



Ngoài các hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn, các hoạt động dịch vụ khác cũng
góp phần không nhỏ vào kết quả kinh doanh của ngân hàng,bao gồm: Thanh toán không
dùng tiền mặt, chuyển tiền, bảo lãnh, quản lý ngân quỹ, Cung cấp các dịch vụ uỷ thác
và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm Xu thế phát triển
của xã hội đòi hỏi các NHTM không ngừng đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, nâng
cao chất lượng để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng. Trong tương lai các hoạt
động dịch vụ này sẽ được các ngân hàng chú trọng phát triển nhằm tăng cường khả
năng cạnh tranh, đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng.

1. 2. Cho vay tiêu dùng
1. 2. 1. Khaí niệm:
Cho vay tiêu dùng là một mảng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Có nhiều
khái niệm khác nhau về cho vay tiêu dùng nhưng ta có thể đưa ra một khái niệm chung
nhất:
“ Cho vay tiêu dùng là hình thức mà theo đó ngân hàng thỏa thuận để khách hàng
là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng theo nguyên
tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định.”
1. 2. 2. Cơ sở của cho vay tiêu dùng
- Nhu cầu cho vay tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ gắn liền với nhu cầu về hàng tiêu
dùng lâu bền như nhà, xe, nhu cầu du học với lực lượng khách hàng rộng lớn.
- Nhiều hãng lớn tự tài trợ chủ yếu bằng phát hành cổ phiếu và trái phiếu, nhiều
công ty tài chính cạnh tranh với ngân hàng trong cho vay làm cho thị phần cho vay các
doanh nghiệp của ngân hàng bị giảm sút, buộc ngân hàng phải mở rộng thị trường cho
vay tiêu dùng để gia tăng thu nhập.
- Người tiêu dùng có thu nhập đều đặn để trả nợ ngân hàng. Một số tầng lớp người
tiêu dùng có thu nhập khá hoặc cao, tương đối ổn định. Vay tiêu dùng giúp họ nâng cao
mức sống, giúp họ nhiều cơ hội tìm kiếm công việc có mức thu nhập cao hơn.

1. 2. 3. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng:



 Giá trị món vay thường nhỏ lẻ phân tán nhưng số lượng các món vay thì lại
rất lớn
Thông thường những khoản vay tiêu dùng có quy mô nhỏ ( ngoại trừ cho vay bất động
sản quy mô có thể lớn hơn nhưng vẫn không thể so sánh với những khoản cho vay để
sản xuất kinh doanh hoặc những khoản vay khác). Đó là do giá trị của hàng hoá tiêu
dùng thường không quá lớn, hoặc khách hàng chỉ vay thêm để bổ sung vào số tiền mà
họ đang tích luỹ hoặc do những yêu cầu về hạn chế rủi ro mà ngân hàng thường không
cho vay khoản tiền lớn với khách hàng có mục đích tiêu dùng, nhất là trường hợp vay
không có tài sản đảm bảo.
Tuy nhiên xét về mặt số lượng, các món vay tiêu dùng lại lớn vì nhu cầu vay tiêu dùng
ngày càng tăng một cách thường xuyên, liên tục cùng với sự phát triển của xã hội. Khi
mức sống và trình độ dân trí ngày càng cao, người dân ngày càng có nhu cầu vay tiêu
dùng để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt của mình,nhằm nâng cao mức
sống, mức hưởng thụ.
 Các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro cao
Các khoản cho vay tiêu dùng cũng là những khoản cho vay nhiều rủi ro nhất đối với
ngân hàng vì tình hình tài chính của các cá nhân, hộ gia đình có thể thay đổi bất thường
theo tình trạng công việc hay sức khoẻ của họ. Nếu người vay bị ốm chết hoặc mất việc
thì ngân hàng cũng khó khăn trong quá trình thu hồi nợ. Trong khi các thông tin của
khách hàng nhiều khi không được minh bạch như là của các khách hàng doanh nghiệp(
ví dụ thông tin về sức khoẻ, triển vọng công việc ) và các khó khăn về tài chính của
khách hàng cá nhân cũng khó giải quyết hơn so với khách hàng doanh nghiệp. Cho nên
rủi ro mà ngân hàng gặp phải khi thu nợ với cho vay tiêu dùng cũng cao hơn.
 Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất cao và cứng nhắc
Lãi suất cho vay tiêu dùng thường rất cao vì nó phải đảm bảo bù đắp được mức chi phí
lớn, rủi ro và tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng. Bên cạnh đó, việc chia các khoản vay
thành nhiều kì hạn trả nợ (đối với cho vay tiêu dùng trả góp) hoặc quá trình vay và trả
nợ được thực hiện nhiều kì một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng(đối với cho
vay tiêu dùng tuần hoàn như thẻ tín dụng ,thấu chi ) ngay từ khi bắt đầu thời kì tín



dụng đã khiến cho lãi suất vay mang tính cố định, hầu như không thay đổi trong suốt
quy trình tín dụng.
 Chi phí cho 1 khoản vay tiêu dùng là khá lớn
Trong danh mục cho vay của ngân hàng, cho vay tiêu dùng là một trong những khoản
mục có chi phí lớn nhất. Do đặc điểm của cho vay tiêu dùng là quy mô món vay nhỏ
nhưng số lượng món vay lại nhiều, số lượng khách hàng đông nên ngân hàng phải sử
dụng nhiều thời gian và huy động một đội ngũ nhân viên lớn vào công việc cho vay, từ
khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng, giải ngân, kiểm soát khách hàng trong khi
cho vay và thu nợ. Bên cạnh đó phải tính thêm cả chi phí về thời gian, nhân lực để điều
tra,thu thập các thông tin về chủ thể vay tiền như mức thu nhập, tình hình sức khoẻ, đạo
đức Đồng thời việc quản lý các khoản cho vay tiêu dùng cũng không phải là vấn đề
đơn giản đối với ngân hàng cho nên chí phí tính trên một đơn vị tiền tệ cho vay cao hơn
so với các loại hình cho vay khác.
1. 2. 4. Vai trò cho vay tiêu dùng
 Đối với khách hàng
Ngoài hai nhược điểm chính là rủi ro và chi phí cao, cho vay tiêu dùng có những lợi ích
quan trọng như:
Thứ nhất, cho vay tiêu dùng giúp tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng với các ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác, thu hút được đối tượng khách hàng mới, từ đó mà mở
rộng quan hệ với khách hàng. Bằng cách nâng cao và mở rộng mạng lưới, đa dạng hoá
sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ cho vay tiêu dùng, số lượng khách hàng đến với
ngân hàng sẽ ngày càng nhiều hơn và hình ảnh của ngân hàng sẽ càng đẹp hơn trong con
mắt khách hàng. Trong ý nghĩ của công chúng, ngân hàng không chỉ là tổ chức chỉ biết
quan tâm đến các công ty và doanh nghiệp mà ngân hàng còn rất quan tâm tới những nhu
cầu nhỏ bé, cần thiết của người tiêu dùng, đáp ứng nguyện vọng cải thiện đời sống của
người tiêu dùng. Từ đó mà uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng cao hơn.
Thứ hai, cho vay tiêu dùng cũng là một công cụ marketing rất hiệu quả, nhiều người sẽ
biết tới ngân hàng hơn. Từ đó mà ngân hàng cũng sẽ huy động được nhiều nguồn tiền
gửi của dân cư.



Thứ ba, cho vay tiêu dùng tạo điều kiện mở rộng và đa dạng hoá kinh doanh từ đó mà
nâng cao thu nhập và phân tán rủi ro cho ngân hàng
 Đối với Ngân hàng
Nhờ cho vay tiêu dùng họ được hưởng các tiện ích trước khi tích lũy đủ tiền và đặc biệt
quan trọng hơn, nó rất cần thiết cho những trường hợp khi các nhân có các chi tiêu có
tính cấp bách, như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế. Tuy vậy, nếu lạm dụng việc đi
vay để tiêu dùng thì cũng rất tai hại vì nó có thể làm cho người đi vay chi tiêu vượt quá
mức cho phép, làm giảm khả năng tiết kiệm hoặc chi tiêu trong tương lai, còn rất nghiêm
trọng hơn nếu mất khả năng chi trả thì người này có thể gặp rất nhiều phiền toái trong
cuộc sống.
 Đối với nền kinh tế
Cho vay tiêu dùng góp phần khơi thông luồng chuyển dịch hàng hoá. Quá trình sản xuất
và lưu thông hàng hoá nếu như không có tiêu dùng thì tất yếu sẽ bị tắc nghẽn, hàng hoá
không tiêu thụ được, dẫn tới doanh nghiệp bị ứ đọng vốn và đương nhiên quá trình sản
xuất không thể tiếp tục. Vai trò của ngân hàng lúc này trở nên quan trọng hơn bao giờ
hết. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay vốn đã tạo ra khả năng thanh toán cho họ trước
khi họ tích luỹ đủ số tiền cần thiết. Khách hàng có tiền sẽ tìm đến doanh nghiệp mua
hàng và doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá, sau đó mới có khả năng thanh toán nợ cho
ngân hàng. Khi đã tiêu thụ được hàng hoá, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất và tìm tới
ngân hàng để tiếp tục vay vốn. Như vậy, ngân hàng cho vay tiêu dùng sẽ có lợi cho cả ba
bên: người tiêu dùng, doanh nghiệp và ngân hàng hay chính là có lợi cho cả nền kinh tế.
Tóm lại, cho vay tiêu dùng để tài trợ cho chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ trong nước thì
nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nhưng nếu các khoản cho vay tiêu dùng không được sử dụng đúng mục đích, như vậy
thì chẳng những không kích cầu mà nhiều khi còn làm giảm khả năng tiết kiệm trong
nước.
1. 2. 5.Phân loại các khoản cho vay tiêu dùng
 Căn cứ vào mục đích vay:
Cho vay tiêu dùng được chia làm hai loại:



(1) Cho vay tiêu dùng cư trú (Residential Mortage Loan):
Cho vay tiêu dùng cư trú là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm xây
dựng hoặc cải tạo nhà ở của khách hàng là cá nhân hoặc hộ gia đình.
(2) Cho vay tiêu dùng phi cư trú (Nonresidential Mortage Loan):
Cho vay tiêu dùng phi cư trú là các khoản cho vay tài trợ cho việc trang trải các chi phí
mua, sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch
 Căn cứ vào biện pháp đảm bảo:
(1)Cho vay có tài sản đảm bảo:
Các ngân hàng áp dụng hình thức này đối với những khách hàng mà ngân hàng chưa
thực sự tin tưởng. Hơn nữa sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn
thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất bị thiếu
Một số hình thức chủ yếu như: Cho vay mua nhà trả góp,cho vay mua ôtô,cho vay du
hoc, cho vay có đảm bảo bằng sổ tiết kiệm, kì phiếu tín phiếu, tín phiếu, trái phiếu và các
chứng từ có giá khác.
(2)Cho vay không có tài sản đảm bảo:
Là loại cho vay ko có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, việc
cho vay ở đây chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Ví dụ cho vay tín chấp đối
với cán bộ công nhân viên
 Căn cứ vào phương thức hoàn trả :
Cho vay tiêu dùng được chia làm ba loại:
(1)Cho vay tiêu dùng trả góp
Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và lãi)
cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay. Phương
thức này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng định
kỳ của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay.
(2) Cho vay tín dụng phi trả góp (Non-installment Consumer Loan)
Theo phương thức này tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ một lần
khi đến hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp cho các
khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.



(3) Cho vay tín dụng tuần hoàn (Revolving Consumer Credit)
Là các khoản cho vay tiêu dùng, trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ
tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo
phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thỏa thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi
tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc
vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ đã được điều chỉnh: Theo phương pháp này số dư nợ
được dùng để tính lãi là số dư nợ cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách hàng đã thanh toán
nợ cho ngân hàng.
- Lãi được tính dựa trên số dư nợ trước khi được điều chỉnh: Theo phương pháp này số
dư nợ dùng để tính lãi là số dư nợ cuối mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán.
- Lãi được tính dựa trên cơ sở dư nợ bình quân
 Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ
(1)Cho vay tiêu dùng gián tiếp (Indirect Consumer Loan)
Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ
phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hóa hay dịch vụ cho người tiêu dùng
1. Ngân hàng và công ty bán lẻ kí kết hợp đông mua bán nợ
2. Công ty bán lẻ và người tiêu dùng kí kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá
3. Công ty bán lẻ giao hàng cho người tiêu dùng
4. Công ty bán lẻ giao bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
5. Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ
6. Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.






Sơ đồ 1: Sơ đồ cho vay tiêu dùng gián tiếp
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau: Cho phép ngân hàng dễ dàng
tăng doanh số cho vay tiêu dùng; cho phép ngân hàng tiết giảm được chi phí trong cho
vay; là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động ngân hàng
khác; trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu dùng gián
tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Bên cạnh một số ưu điểm trên, cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số nhược điểm
sau: Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu; thiếu sự
kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hóa; kỹ thuật
nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm kể trên nên có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với cho
vay tiêu dùng gián tiếp. Còn những ngân hàng nào tham gia vào hoạt động này thì đều có
các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ.
(2) Cho vay tiêu dùng trực tiếp (Direct Consumer Loan)
Ngân hàng
Công ty bán
lẻ
Người tiêu
dùng
(4)

(6)

(2)

(3)

(5
)

(1)




Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp
tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay.
Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp, ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của
nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng
thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những công ty
bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động của mình
nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản cho vay có
chất lượng tốt trong khi nhân viên của công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc bán cho
được nhiều hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường
được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định
nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với khách hàng tốt của mình. Nếu
người cấp tín dụng là ngân hàng, điều này có thể được hạn chế.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm là linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể phát sinh,
có khả năng làm thỏa mãn quyền lợi cho cả hai phía khách hàng lẫn ngân hàng.


Người tiêu
dùng
Ngân hàng
Công ty bán
lẻ
(3)
(5)
(1)
(2)
(4)



Sơ đồ 2 : Sơ đồ cho vay tiêu dùng trực tiếp:
1. Ngân hàng và người tiêu dùng kí kết hợp đồng cho vay
2. Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ
3. Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ
4. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
5. Ngườì tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng

1. 3. Chất lượng tín dụng
1. 3 .1. Khái niệm
Chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn của khách hàng
để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự tồn tại phát triển của ngân
hàng và phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội.
Trước đây quan niệm về chất lượng tín dụng chỉ giới hạn trong khái niệm an toàn
cho vay, thể hiện qua tổn thất phát sinh từ những rủi ro tín dụng. Chất lượng tín dụng
được coi là cao khi các khoản cho vay không có hoặc có ít tổn thất và ngược lại, khi tổn
thất lớn thì chất lượng tín dụng sẽ được coi là thấp. Nhưng thực tế quan hệ tín dụng
luôn có sự ảnh hưởng tới ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. Như vậy chất lượng tín
dụng đối với từng chủ thể khác nhau được quan niệm khác nhau
 Đối với Ngân hàng
Chất lượng tín dụng thể hiện ở mức độ, phạm vi, sự phù hợp của tín dụng với qui định,
khả năng của ngân hàng, đảm bảo sức cạnh tranh trên thị trường và lợi nhuận, đảm bảo
nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động tín dụng phải thể hiện ở
chi tiêu thuận lợi hợp lý và gia tăng dư nợ ngày càng tăng trưởng, tỉ lệ nợ quá hạn đảm
bảo đúng quy định và hợp lý, đảm bảo cơ cấu vốn giữa ngắn hạn trung hạn và dài hạn
trong nền kinh tế. Đối với một ngân hàng nhỏ thì nên cấp tín dụng với mức độ và trong
phạm vi nhất điịnh để thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
 Đối với khách hàng:
Chất lượng tín dụng tiêu dùng xét dưới giác độ khách hàng được thể hiện ở sự thoả mãn
nhu cầu vốn từ phía ngân hàng. Sự thoả mãn ấy thể hiện ở khối lượng tín dụng được

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét