Lời mở đầu
Lý luận về tiền lơng đã đợc các nhà kinh tế nghiên cứu từ rất lâu bắt đầu
là W.Petty. Lý thuyết mức lơng tối thiểu phản ánh trình độ phát triển ban đầu
của CNTB. Lúc này, sản xuất cha phát triển, để buộc công nhân làm việc, giai
cấp t sản phải dựa vào Nhà nớc để duy trì mức lơng thấp. Tuy nhiên từ lý luận
này ta thấy đợc là, công nhân chỉ nhận đợc từ sản phẩm lao động của mình
những t liệu sinh hoạt tối thiểu do họ tạo ra. Phần còn lại đã bị nhà t bản
chiếm đoạt. Đó là mầm mống phân tích sự bóc lột.
Lý luận về tiền lơng của Mác là sự tiếp tục phát triển lý luận về tiền l-
ơng của các nhà kinh tế cổ điển trớc đó. Lý luận tiền lơng của Mác đã vạch rõ
bản chất của tiền lơng dới CNTB đã bị che đậy tiền lơng là giá cả của lao
động, bác bỏ quan niệm của các nhà kinh tế t bản trớc đó (Ricardo). Những
luận điểm của Mác về tiền lơng vẫn còn giá trị đến ngày nay.
Mặc dù ở nớc ta chính sách tiền lơng đã đợc cải cách. Tuy nhiên, nhiều
vấn đề cốt lõi vẫn cha đợc giải quyết một cách thoả đáng. Cho đến nay, thu
nhập của ngời đợc hởng lơng tăng, mức sống, tiêu dùng tăng, về cơ bản không
do chính sách tiền lơng đem lại mà do tăng thu nhập ngoài lơng, nhờ kinh tế
tăng trởng (tiền lơng Nhà nớc trả chỉ chiếm một phần ba, thu nhập khác chiếm
tới hai phần ba).
Việc hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý về tiền lơng của Mác
trong điều kiện nền kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay có ý nghĩa rất lớn. Đây
là vấn đề đã thu hút đợc sự quan tâm của đông đảo ngời lao động và chuyên
gia nghiên cứu. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên mà tôi viết
đề tài này nhằm hiểu rõ hơn về hệ thống chính sách tiền lơng ở Việt Nam,
nhằm đa ra các kiến nghị hoàn thiện hệ thống chính sách tiền lơng ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
1
I. Lý luận tiền lơng của C.Mác trong chủ nghĩa t bản
của Mác
1. Bản chất tiền lơng dới chủ nghĩa t bản
Bản chất của tiền công trong chủ nghĩa t bản là hình thức biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả của sức lao động, nhng lại biểu
hiện ra bên ngoài thành giá cả của lao động
2. Các hình thức cơ bản của tiền lơng
a. Tiền lơng tính theo thời gian
Tiền lơng tính theo thời gian là hình thức tiền lơng mà số lợng của nó
phụ thuộc vào thời gian lao động của công nhân (giời, ngày, tuần, tháng).
b. Tiền lơng tính theo sản phẩm
Tiền lơng tính theo sản phẩm là hình thức tiền lơng mà số lợng của nó
phụ thuộc vào số lợng sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc số lợng
công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định.
Về mặt lịch sử, tiền lơng tính theo thời gian đợc áp dụng rộng rãi trong
giai đoạn đầu phát triển của chủ nghĩa t bản, còn ở giai đoạn sau thì tiền lơng
tính theo sản phẩm đợc áp dụng rộng rãi hơn. Hiện nay, hình thức tiền lơng
tính theo thời gian ngày càng đợc mở rộng.
3. Tiền lơng danh nghĩa và tiền lơng thực tế. Xu hớng vận động của
tiền lơng dới chủ nghĩa t bản.
a. Tiền lơng danh nghĩa và tiền lơng thực tế
Tiền lơng danh nghĩa là tổng số tiền mà ngời công nhân nhận đợc do
bán sức lao động của mình cho nhà t bản. Nó là giá cả sức lao động. Nó tăng
giảm theo sự biến động trong quan hệ cung cầu về hàng hoá sức lao động
trên thị trờng
2
Tiền lơng thực tế là số lợng hàng hoá và dịch vụ mà công nhân có thể
thu đợc bằng tiền lơng danh nghĩa. Rõ ràng, nếu điều kiện khác không thay
đổi, tiền lơng thực tế phụ thuộc theo tỷ lệ thuận vào đại lợng tiền lơng danh
nghĩa và phụ thuộc theo tỷ lệ nghịch với mức giá cả vật phẩm tiêu dùng và
dịch vụ.
b. Xu hớng vận động của tiền lơng dới chủ nghĩa t bản
Nghiên cứu sự vận động của tiền lơng dới chủ nghĩa t bản, C.Mác vạch
ra rằng, xu hớng chung có tính quy luật của sự vận động của tiền lơng dới chủ
nghĩa t bản là: trong quá trình phát triển của chủ nghĩa t bản, tiền công danh
nghĩa có xu hớng tăng lên, nhng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp
với mức tăng giá cả t liệu tiêu dùng và dịch vụ. Khi đó, tiền công thực tế có xu
hớng hạ thấp.
Sự hạ thấp tiền lơng dới giá trị sức lao động do tác động của một loạt
nhân tố sau đây:
+ Thị trờng sức lao động luôn ở tình trạng cung về lao động làm thuê v-
ợt quá cầu về lao động, do đó cạnh tranh giữa công nhân tăng lên. Điều đó cho
phép nhà t bản thấy rằng, hàng hoá - sức lao động buộc phải bán trong mọi
điều kiện, vì công nhân không có cách nào khác để sinh sống. Mức lơng trung
bình bị giảm xuống còn do hàng triệu ngời không có việc làm đầy đủ trong
năm, nói chung họ không nhận đợc tiền lơng.
+ Lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền cũng là nhân tố làm giảm
tiền lơng trong điều kiện hiện nay.
Mức lơng của các nớc có sự khác nhau. Điều đó đợc quyết định bởi
nhân tố tự nhiên, truyền thống văn hoá và những nhân tố khác, trong đó nhân
tố đấu tranh của giai cấp công nhân đóng vai trò quan trọng. Trong các nớc t
bản phát triển, mức lơng thờng cao hơn ở các nớc đang phát triển. Nhng ở đó
có sự bóc lột cao hơn, vì kỹ thuật và phơng pháp tổ chức lao động hiện đại đợc
3
áp dụng. Giá cả hàng hoá - sức lao động thấp là nhân tố quan trọng nhất thu
hút t bản độc quyền vào các nớc đang phát triển.
Sự bóc lột lao động làm thuê ở các nớc t bản phát triển còn có những
hình thức che giấu tinh vi ơn. Khi thiên về sự củng cố quan hệ con ngời, về
sự thống trị của các nguyên tắc công ty là một gia đình, giai cấp t sản hiện
đại thực hiện mu toan thuyết phục công nhân rằng lợi ích của xí nghiệp, lợi
ích của t bản thống nhất với lợi ích của công nhân. Vai trò kích thích của tiền
lơng đợc sử dụng vào mục đích đó. Không phải chỉ có thái độ tận tâm với
công việc mà sự phục vụ trung thành cho công ty cũng đợc kích thích bởi đại
lợng và hình thức của tiền lơng. Điều đó có nghĩa là không chỉ bằng hình thức
tiền lơng, mà còn bằng tổ chức tiền lơng dựa trên cơ sở tâm lý của hoạt động
lao động, giai cấp t sản rất muốn thủ tiêu hoặc làm dịu mâu thuẫn giữa t bản
và lao động. Đó là đặc trng của những liên hiệp độc quyền lớn hiện đại, ở đó
các nhà t bản đã không tiếc tiền chi vào những chi phí nhằm tạo ra bầu không
khí tin cậy để hình thành ở ngời công nhân ý thức ngời chủ. Tính mềm dẻo
trong sự vận dụng các hình thức khác nhau của tiền lơng, việc tính toán những
yêu cầu kỹ thuật, tổ chức và tâm lý khi trang bị nơi làm việc đa đến tăng năng
suất lao động và tăng chất lợng sản phẩm, tất cả đều nhằm mục đích tăng giá
trị thặng d. Điều đó có nghĩa là tăng cờng bóc lột ngời lao động.
4
II. Tình hình thực hiện chính sách tiền lơng ở Việt
Nam
Chính sách tiền lơng đang đợc thực hiện là kết quả của đợt cải cách tiền
lơng năm 2008. Đây là một cuộc cải cách tiến bộ không những về lơng mà
còn là một đợt sắp xếp lại hệ thống phân phối tiền lơng từ ngân sách nhà nớc
(NSNN), khắc phục tính bình quân trong phân phối, sắp xếp lại hệ thống thang
bảng lơng và tạo bớc ngoặt về nhận thức quan điểm- coi tiền lơng là giá cả sức
lao động, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trờng và từng bớc xây dựng
thể chế kinh tế thị trờng.
Những thay đổi về cơ chế kinh tế từ sau cải cách tiền lơng, dẫn đến việc
tách biệt rõ ràng hơn sự hình thành quỹ lơng giữa khu vực hành chính sự
nghiệp và sản xuất, kinh doanh trong kinh tế Nhà nớc. Đối với khu vực sản
xuất, kinh doanh: quỹ tiền lơng là một bộ phận chi phí cần thiết để tạo nên giá
trị mới, là chi phí cho lao động sống. Quỹ lơng của các doanh nghiệp Nhà nớc
hoàn toàn tách hẳn khỏi ngân sách Nhà nớc. Các doanh nghiệp tự hình thành
qũy lơng trên cơ sở kết quả sản xuất, kinh doanh của mình có tính đến mức
tiền công lao động trên thị trờng địa phơng. Nhà nớc chỉ quản lý việc thực
hiện mức lơng tối thiểu và đơn giá tiền lơng trong giá thành sản phẩm.
Sau hơn 3 năm áp dụng chính sách lơng mới, chúng ta thấy có nhiều u
điểm và tiến bộ, nh Nghị quyết phiên họp thờng kỳ (tháng 8-2010) của Chính
phủ cũng đã đánh giá: thực hiện phân phối công bằng hơn, tạo động lực
thúc đẩy tăng trởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công
tác. Tuy vậy, cuộc sống luôn luôn biến động, trong khi tiền lơng lại chủ yếu
nằm trong trạng thái tĩnh, ít có thay đổi trong cả hệ thống thang bảng lơng,
cho nên nó đã bộc lộ nhiều mặt hạn chế. Chẳng hạn:
Tiền lơng thực tế vẫn cha làm đợc chức năng tái sản xuất sức lao động.
Mức lơng của nhiều chức danh thậm chí không thể chu cấp đủ để ăn, cha kể
5
đến các khoản nh tiền nhà, chữa bệnh, tiền điện, nớc đã đợc tiền tệ hoá vào
lơng. Ngời lao động thực tế không thể tích luỹ từ lơng để thuê hay mua nhà ở.
Mức lơng tối thiểu còn quá thấp, mặc đã qua 3 lần điều chỉnh. Tháng 5 năm
2010 mức lơng tối thiểu là 730 nghìn/ tháng, tháng 5 năm 2011 tăng lên 830
nghìn/ tháng. Đến ngày 1/10/2011, theo Nghị định 70 của Chính phủ, mức l-
ơng tối thiểu theo 4 vùng: Vùng 1: 2 triệu đ/ tháng; Vùng 2: 1.78 triệu đ/
tháng; Vùng 3: 1.55 triệu đ/ tháng; Vùng 4: 1.4 triệu đ/ tháng. Mỗi lần điều
chỉnh tiền lơng tối thiểu đều phải bàn cãi, đấu tranh, giằng co giữa đòi hỏi tất
yếu, bức bách từ cuộc sống với hạn chế của tài chính ngân sách. Có hai chốt
hãm làm cho mọi ý định tăng mức lơng tối thiểu đều phải chùn lại, đó là
không có nguồn tài chính và nếu với nguồn tài chính có hạn muốn tăng lơng
thì phải giảm biên chế, nhng vì nhiều lý do khác nhau, biên chế tiếp tục tăng
thêm. Ngay trong đợt sắp xếp lại biên chế để thực hiện giảm biên đồng loạt
15%, thì biên chế cũng đã tăng lên 2,5%
Hệ thống thang bảng lơng cha thực sự khuyến khích ngời lao động phấn
đấu về mựat chuyên môn, vô hình trung khuyến khích cán bộ, công chức chạy
đua theo chức vụ. Chẳng hạn, các kỳ lên lơng vẫn nặng về thời gian, thâm niên
công tác, đến hẹn lại lên, không có chính sách lên lơng vợt cấp, trớc niên
hạn (trừ một số cấp bậc của cán bộ cao cấp do bầu cử hoặc đề bạt) cho dù
thành tích đạt đợc về mặt chuyên môn đến mức độ nào. Thi nâng bậc còn
mang tính hình thức, kết quả thi cha thực sự gắn với chuyên môn công tác cụ
thể, đối tợng quá độ còn nhiều, nên dễ bị áp dụng tuỳ tiện. Hậu quả là chính
sách tiền lơng cha thực sự khuyến khích ngời lao động, cha khuyến khích các
tài năng, đặc biệt là tài năng trẻ.
Tình trạng bất hợp lý và không công bằng vẫn còn là vấn đề bức bách
của chính sách tiền lơng hiện nay. Điều đó đợc thể hiện trên cả hai khía cạnh:
thứ nhất, tình trạng bình quân chủ nghĩa vẫn cha đợc khắc phục. Mặc dầu lơng
tối thiểu và tối đa đã chênh lệch gấp hơn 10 lần, tăng lên hơn 2 lần so với hệ
6
thống tiền lơng của thời kỳ trớc, mới đầu tởng chừng nó có thể góp phần khắc
phục đợc tính chất bình quân trong phân phối, nhng do sự chi tiết đến thái quá
lại cũng làm cho tiền lơng rơi vào trạng thái bình quân chủ nghĩa. Bởi vì,
khoảng cách giữa các bậc lơng quá ngắn, thấp nhất là 0,09 và cao nhất là 0,43.
Thêm vào đó, thời gian phấn đấu để đạt tới bậc cao nhất quá dài, có những bậc
lơng đa ra mà không ai vơn tới, hoặc do quá cao, hoặc do thời gian phấn đấu
quá dài. Ví dụ: 16 bậc cán sự, thấp nhất là 1,46, cao nhất là 3,33, khoảng cách
mỗi bậc là 0,12 tơng đơng 48 năm.
Thứ hai, tình trạng bất hợp lý do vẫn tồn tại nhiều ngành, nhiều cơ quan
và khu vực có sự chênh lệch quá mức về thu nhập, hình thành nhiều khoản thu
và chia chác trong các cơ quan mà Nhà nớc không quản lý nổi. Mọi ngời đều
biết rằng mức lơng hiện nay không thể đảm bảo đợc mức sống bình thờng.
Chẳng hạn, một sinh viên đại học hiện nay muốn sống và học tập bình thờng
phải đợc chu cấp tối thiểu 1 triệu đồng và trung bình là 1.2 triệu đồng/tháng ở
Hà nội (ở thành phố Hồ Chí Minh còn cao hơn), tơng đơng với một cán sự bậc
10, nghĩa là phải làm việc đợc 30 năm. Đây là một nghịch lý. Bất hợp lý nữa là
thu nhập ngoài lơng lớn hơn lơng rất nhiều trong một bộ phận cán bộ, công
chức; chênh lệch về thu nhập giữa các ngành, các cơ quan, đơn vị rất lớn. Hiện
nay có khoảng 40% số các đơn vị hành chính- sự nghiệp cả nớc là hoạt động
sự nghiệp. Tính riêng năm 2010, theo Bộ Tài chính, số thu của 100 trờng đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đã có 304,946 tỉ đồng (bằng 68,43%
kinh phí NSNN cấp). Số thu của 21 đơn vị thuộc Bộ Khoa học Công nghệ
và Môi trờng, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia đạt 6,373
tỉ đồng (bằng 16,4% kinh phí NSNN cấp) Khoản trích 30% viện phí để khen
thởng trong ngành y tế là 80,566 tỉ đồng, bình quân mỗi biên chế trong ngành
nhận 6,387 triệu đồng/năm, trong đó cao nhất là Bệnh viện Chợ Rẫy 16,28
triệu đồng), thấp nhất là Bệnh viện Tâm thần trung ơng (2,79 triệu đồng). Đó
7
là cha kể sự chênh lệch quá lớn giữa lao động trong biên chế nhà nớc với các
thành phần kinh tế khác.
Những chênh lệch và những nghịch lý ấy đang là lý do cả về vật chất
lẫn ý thức làm cho ngời lao động coi tiền lơng là một khoản thu thu nhập
phụ, không ai sống chỉ bằng lơng, Nhà nớc không quản lý đợc thu nhập và
chúng đang gây ra những hậu quả tiêu cực, nh: hạch toán sai, báo cáo không
đầy đủ, giấu nguồn thu, trốn thuế thu nhập, sử dụng thu nhập mập mờ, tuỳ
tiện, cản trở kiểm tra, kiểm soát. Điều tệ hại không đo đếm đợc là tạo ra tâm
lý lạm dụng của công, nạn tham nhũng tập thể, dùng tiền công để chi tiêu thoả
sức
Diện hởng lơng từ ngân sách nhà nớc (NSNN) quá rộng, cơ cấu bất hợp
lý. Hiện nay, có 8 đối tợng hởng lơng, phụ cấp, trợ cấp mang tính chất lơng từ
NSNN, gồm: cán bộ công chức khối hành chính; cán bộ công chức khối sự
nghiệp; cán bộ công chức khối cơ quan đảng và đoàn thể; cán bộ công chức
khối cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp); cán bộ cấp xã,
phờng; cán bộ, chiến sĩ khối lực lợng vũ trang, công an, an ninh ; các đối tợng
bảo hiểm xã hội, hu trí, mất sức; những ngời có công, thơng binh, bệnh binh,
gia đình liệt sĩ. Tính đến hết tháng 12 năm 2010, tổng toàn bộ các đối tợng
trên lên tới 6,2 triệu ngời, chiếm 8% dân số, trong đó 66,9% (tơng đơng 4
triệu ngời) thuộc 2 nhóm cuối hu trí và các chính sách xã hội.
Trên thế giới không có quốc gia nào có tỷ lệ nh vậy, vì nớc ta phải gánh
chịu hậu quả nặng nề của gần 30 năm chiến tranh khốc liệt và một thời gian
dài duy trì cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, cha áp dụng chính sách nộp
bảo hiểm xã hội. Số cán bộ, công chức đang làm việc thực tế chỉ chiếm tỷ lệ
nhỏ:
- Khối quản lý hành chính nhà nớc chiếm 3,4% tổng số. Tính ra cứ
1.000 ngời dân có khoảng 2,7 cán bộ công chức (0,27% dân số, và nếu tính
gộp cả khối đảng, đoàn thể là 0,3% dân số). Tỷ lệ này là thấp so với nhiều nớc
8
trên thế giới, ngay nh Trung Quốc, là nớc đông dân nhất, cũng có tỷ lệ 2,0%,
Pháp 4%.
- Khối sự nghiệp chiếm 18,4% tổng số, trong đó nhiều nhất là ngành
giáo dục - đào tạo chiếm 14,5%, y tế; 3,1% và các đổi tợng sự nghiệp khác:
0,8%.
- Cán bộ cấp phờng, xã chiếm khoảng 6,2% tổng số. Tính bình quân
mỗi xã có 37 cán bộ hởng phụ cấp từ NSNN. Nếu tính thêm các đối tợng từ tr-
ởng thôn đến bí th chi bộ, thì con số này sẽ lên đến 203 cán bộ/1xã, nghĩa là
1.000 ngời dân có 27 cán bộ xã, nhiều gấp 10 lần tỷ lệ cán bộ, công chức khối
hành chính nhà nớc.
Ngay trong bản thân hệ thống biên chế nhà nớc ta hiện nay, các đối t-
ợng phục vụ, nh nhân viên bảo vệ, lái xe, tạp vụ, văn th chiếm tỷ lệ quá cao,
khoảng 18,7% (1 ngời phục vụ 4 ngời, nếu tính số nhân viên văn phòng là
phục vụ thì nhiều cơ quan tỷ lệ này 1:1)
9
III. MộT Số KIếN NGHị
Từ kết quả nghiên cứu trên đây kiến nghị:
+ Đối với Nhà nớc.
- Tổ chức nghiên cứu tổng thể và luận chứng đầy đủ về các mối quan hệ
vĩ mô của tiền lơng, trên cơ sở đó xem xét thể hiện các nội dung hoàn thiện
nói trên vào đề án cải cách tiền lơng Nhà nớc trong giai đoạn tới, cụ thể nh
mối quan hệ giữa tiền lơng - việc làm; mối quan hệ tiền lơng - tiền công - thu
nhập giữa các nhóm dân c; tiền lơng - phát triển con ngời - phát triển kinh tế.
- Quy định những nguyên tắc chung nhất về việc xây dựng thang lơng,
bảng lơng cho các doanh nghiệp vận dụng. Theo đó, doanh nghiệp có trách
nhiệm xây dựng hệ thống thang lơng, bảng lơng, phụ cấp lơng phù hợp với
quy mô, tổ chức sản xuất và tổ chức lao động, tự lựa chọn quyết định mức l-
ơng tối thiểu không thấp hơn mức lơng tối thiểu do Nhà nớc quy định; hình
thành các phơng pháp trả lơng và thu nhập gắn với năng suất, chất lợng và
hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
- Hớng dẫn phơng pháp xây dựng hệ thống tiền lơng, định mức lao
động, đơn giá tiền lơng, phơng pháp tính năng suất lao động gắn với tiền lơng.
- Đổi mới vai trò quản lý Nhà nớc trong lĩnh vực lao động và xã hội
theo hớng tăng cờng áp dụng các công cụ, các đòn bẩy kinh tế, giảm các biện
pháp quản lý hành chính, trực tiếp; tăng cờng vai trò điều tiết lao động và hỗ
trợ cho thị trờng lao động phát triển nh cung cấp thông tin về thị trờng lao
động, các hoạt động hỗ trợ về việc làm và đào tạo nghề, sớm ban hành chính
sách bảo hiểm thất nghiệp, các chính sách trợ giúp khác.
- Tăng cờng năng lực cho các cơ quan hoạch định và nghiên cứu chính
sách có liên quan đến lao động và tiền lơng. Đồng thời tạo điều kiện pháp lý
để các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội tham gia việc hoạch định và thực
hiện các chính sách về lao động và tiền lơng.
10
+ Đối với các Bộ, ngành có liên quan.
- Thực hiện ngay việc cụ thể hoá và hớng dẫn các quy định mới của
Nhà nớc về chính sách tiền lơng đối với khu vực sản xuất, kinh doanh.
- Chuyển đổi cơ chế quản lý hành chính áp đặt tiền lơng trong khu vực
sản xuất kinh doanh hiện nay sang cơ chế quản lý mang tính hớng dẫn là chủ
yếu. Đồng thời tăng cờng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát bảo đảm việc
thực hiện chính sách tiền lơng trong khu vực này đúng với quỹ đạo chung và
bảo vệ quyền lợi của ngời lao động trong doanh nghiệp.
- Đồng bộ đổi mới các cơ chế quản lý khác trong doanh nghiệp (cơ chế
quản lý tài chính, cơ chế quản lý doanh nghiệp) cho phù hợp với quá trình đổi
mới, hoàn thiện chính sách tiền lơng.
- Tổ chức bộ phận nghiên cứu hoạch định chính sách tiền lơng, bộ phận
kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách tiền lơng phù hợp với yêu cầu quản lý
mới. Kịp thời phát hiện xử lý những vớng mắc phát sinh trong vấn đề tiền l-
ơng, thu nhập cũng nh đề xuất với Nhà nớc việc điều chỉnh bổ sung, sửa đổi
khi phát sinh bất hợp lý.
+ Đối với các doanh nghiệp.
- Trên cơ sở quyền chủ động về vấn đề tiền lơng, thu nhập trong cơ chế,
chính sách mới, tổ chức bộ phận nghiên cứu quản lý cho phù hợp nhằm sử
dụng có hiệu quả đòn bẩy tiền lơng trong việc khuyến khích nâng cao chất l-
ợng, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Tăng cờng công tác xây dựng kế hoạch lao động, định mức lao động,
quỹ lơng kế hoạch cũng nh việc xác định đơn giá tiền lơng trên cơ sở bảo đảm
nguyên tắc tốc độ tăng tiền lơng bình quân thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao
động bình quân, lợi nhuận bình quân đầu ngời không thấp hơn năm trớc liền
kề. Coi đây là trách nhiệm quản lý tự thân của doanh nghiệp, không phải là sự
áp đặt hành chính của Nhà nớc nh trớc.
11
- Tổ chức công tác hạch toán, kế toán, phân tích hiệu quả doanh nghiệp,
trên cơ sở đó thực hiện quyết định mức lơng tối thiểu và quy định các mức tiền
lơng thu nhập đồng thời đảm bảo vai trò của tổ chức Công đoàn trong vấn đề
này theo quy định của pháp luật.
12
Kết luận
Những phân tích trên cho thấy đã đến lúc phải có bớc đột phá thật sự
trong việc tiếp tục cải cách chính sách tiền lơng, không chỉ là ở vấn đề tạo
nguồn tài chính để tăng lơng tối thiểu đơn thuần mà cả về vấn đề nghiệp vụ
tiền lơng, nghĩa là cải cách cả hệ thống thang bảng lơng khắc phục những hạn
chế, bất cập của nó xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của cuộc sống. Cần
khẩn trơng đa quan điểm của Đảng tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng lần
thứ nhất (khoá XI) vào cuộc sống, rằng: tiền lơng gắn liền với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nớc, trả lơng đúng cho ngời lao động chính là thực
hiện đầu t cho phát triển; góp phần quan trọng làm lành mạnh, trong sạch đội
ngũ cán bộ, nâng cao tinh thần trách nhiệm và hiệu suất công tác
Đại hội lần thứ XI khẳng định: Cải cách cơ bản chế độ tiền lơng cán
bộ, công chức theo hớng tiền tệ hoá đầy đủ tiền lơng; điều chỉnh tiền lơng t-
ơng ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội; hệ thống thang bậc lơng bảo
đảm tơng quan hợp lý, khuyến khích ngời có tài, ngời làm việc giỏi
13
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét