Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện công tác tôn giáo (1990-2004)

- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy và
nghiên cứu ở trường chính trị, cao đẳng, đại học và là tài liệu tuyên truyền, giáo
dục, nâng cao trình độ nhận thức của đảng bộ các cấp ở An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
4
CHƯƠNG I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÔN GIÁO Ở AN GIANG VÀ
ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO
1.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG Ở
AN GIANG
1.1.1. Vài nét về tỉnh An Giang
An Giang là tỉnh biên giới có nhiều dân tộc, tôn giáo, giàu tài nguyên
thiên nhiên; nhân dân giàu lòng yêu nước và sớm có truyền thống đấu tranh cách
mạng, đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân”. An Giang đã được xác định là địa bàn quan trọng trong sự nghiệp
phát triển kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng của vùng Tây Nam bộ.
An Giang có diện tích tự nhiên 3.401,585km2, Các đơn vị hành chính trực
thuộc gồm: thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc và 9 huyện, có 140 đơn vị
hành chính cơ sở (118 xã, 11 phường, 11 thị trấn), 735 khóm, ấp. An Giang có
chiều dài theo hướng Bắc - Nam là 86 km và Đông - Tây là 87,2 km, phía Tây
Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài khoảng 104 km, Tây Nam giáp
tỉnh Kiên Giang với địa giới 69,78km, Nam giáp thành phố Cần Thơ 44,73 km,
phía Đông giáp tỉnh Đồng Tháp 107,62 km.
An Giang có 5 huyện (với 17 xã) biên giới giáp Campuchia. Năm 1997,
Uỷ ban Dân tộc - Miền núi công nhận tỉnh có 21 xã dân tộc miền núi (thuộc 2
huyện Tri Tôn: 9 xã, Tịnh Biên: 12 xã và các xã vùng đồng bằng gồm Lương An
Trà -Tri Tôn; Đa Phước, Khánh Bình, Quốc Thái, Nhơn Hội, Vĩnh Tường - An
Phú. Tính đến ngày 20.5.2003, dân số An Giang là 2.141.256 người, trong đó
dân số sống ở thành thị chiếm 21,49%, ở nông thôn 78,51%. Đồng bào dân tộc
thiểu số chiếm 5,64 % dân số, gồm: Khmer, Chăm, Hoa (đồng bào Khmer có
90.441 người, sống rải rác tại 5 huyện: Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú, Châu
Thành, Thoại Sơn; đồng bào người Hoa có 15.989 người, chủ yếu sinh sống ở
các thị trấn và nội ô Long Xuyên, Châu Đốc, Tân Châu; đồng bào Chăm có
14.274 người, sống tập trung ở các huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Châu
5
Thành, Thoại Sơn). Từ lâu, đồng bào các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa luôn gắn
bó, đoàn kết với đồng bào Kinh trong lao động, đấu tranh bảo vệ quê hương và
luôn có ý thức giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
1.1.2. Đời sống văn hoá, tín ngưỡng ở An Giang
An Giang là một tỉnh mới được khai phá từ Triều Nguyễn, thuộc đồng
bằng sông Cửu Long, nhưng lại có nhiều núi non hùng vĩ. Từ xa xưa, đây là
vùng rừng rậm, hoang vu, với những ngọn núi cao mang tên Phụng Hoàng Sơn,
Bạch Hổ Sơn, Ngọc Long Sơn, Bích Thủy Sơn, Ngũ Hổ Sơn, Hoạ My Sơn,
Thiên Cấm Sơn; lại có những vùng đầm lầy, sông ngòi chằng chịt với những cù
lao, cồn Tiên, cồn Cát Cuộc sống với nền kinh tế được thiên nhiên ưu đãi, nên
người dân sống chủ yếu dựa vào rừng núi, sông rạch với các nghề như trồng lúa
nước, đánh bắt cá, làm rẫy, đốn củi đốt than, lấy cây thuốc Trước đây do điều
kiện giao thông khó khăn nên người dân địa phương còn lệ thuộc nhiều vào
thiên nhiên; bên cạnh đó sự áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến khiến đời
sống nhân dân ngày càng khốn khó và ngày càng phụ thuộc vào thiên nhiên.
An Giang là tỉnh biên giới nên sớm là nơi hội tụ và giao lưu nhiều nền
văn hoá của các dân tộc trong nước và khu vực. Song nổi trội hơn cả là sự giao
lưu văn hoá của các dân tộc cùng chung sống và khai khẩn trên vùng đất này. Ở
đây, văn hoá của những cư dân bản địa Khmer đã gặp gỡ với văn hóa của di dân
người Việt, người Hoa và người Chăm…góp phần tạo nên một nền văn hóa
chung của cộng đồng cư dân Nam bộ. Cuộc sống của những cư dân trên vùng
đất An Giang không chỉ có khai hoang, lập ấp, cày bừa, gặt hái để có cái ăn, cái
mặc, còn có những nhu cầu tâm linh. Sự hoài niệm về nguồn cội không chỉ là
tình cảm mà còn là niềm tin ở sự trợ giúp của ông bà, tổ tiên cho con cháu sinh
sống trên vùng đất mới. Cũng trên vùng đất này, các cư dân đã phải đối diện với
một sức mạnh siêu nhiên hoang sơ, đầy bí ẩn; thực tế này chi phối không ít cuộc
sống của họ. Niềm tin ở sự can dự của thần thánh, ma quỷ vào công cuộc khai
khẩn, định cư của cư dân và tính ác liệt của chiến tranh giành dân, lấn đất của
thực dân Pháp đã tạo cho họ tâm lý tin tưởng vào sức mạnh siêu nhiên. Chính
6
điều này đã lý giải tại sao An Giang là nơi hội tụ và cũng là nơi hình thành nhiều
loại tín ngưỡng, tôn giáo.
Giữa thế kỷ XIX, miền Tây Nam bộ xảy ra chiến tranh liên miên, tàn
khốc, nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Đây là giai đoạn ra đời các tôn giáo
mới ở An Giang.
Trước hết phải kể đến đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, do ông Đoàn Minh Huyên
sáng lập vào cuối năm 1849, tại Cốc ông Đạo Kiến ( nay là Tây An Cổ Tự, xã
Long Kiến, huyện Chợ Mới). Đoàn Minh Huyên (1807 - 1856) quê quán ở làng
Tòng Sơn, Tổng An Định (nay là xã Mỹ Hưng, Thạnh Hưng, Đồng Tháp). Ông
là một sĩ phu yêu nước có hiểu biết sâu sắc về sấm Trạng Trình. Trước cảnh
loạn lạc, nhân dân cơ cực khốn cùng, hạn hán kéo dài, dịch bệnh, đói kém đang
hoành hành, Ông cho rằng; đó là điềm trời báo trước sắp đổi đời, đời “hạ
ngươn” sắp mãn, để bước vào “Hội Long Hoa” lập đời “thượng ngươn”. Tiên -
Phật sẽ mở “Hội Long Hoa” chọn những người hiền đức, sống có nhân có nghĩa
để sống đời “thượng ngươn” an lạc, thanh bình mãi mãi. Còn những kẻ gian ác
sẽ bị trừng trị thảm khốc.
Do giáo lý chủ yếu dựa vào sấm Trạng Trình, cách thức thờ cúng khác
hẳn Phật giáo, nên môi trường chùa Tây An đã hạn chế sự phát triển của đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương. Mặt khác, để có nơi sinh sống, tu luyện, tập hợp lực lượng,
tránh sự nhòm ngó của nhà cầm quyền, Đoàn Minh Huyên cùng các đệ tử và tín
đồ khai hoang, lập trại ruộng, xây chùa ở nhiều nơi, nhất là vùng núi thuộc hai
huyện Tri Tôn và Tịnh Biên. Ông được đệ tử và nhân dân trong vùng suy tôn là
Đức Phật thầy Tây An. Hoạt động của Ông chủ yếu là chữa bệnh cứu người,
khai hoang, dạy người tu hành làm điều lành, tránh điều dữ, nên đáp ứng được
nhu cầu của người nông dân và hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Đó là lý do khiến
đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tồn tại và phát triển mạnh mẽ; đến năm 1856 đã có mấy
mươi vạn tín đồ khắp miền Tây Nam bộ.
Khi thực dân Pháp xâm lược, những trại ruộng của Bửu Sơn Kỳ Hương
trở thành căn cứ chuẩn bị khởi nghĩa chống Pháp. Điển hình là cuộc khởi nghĩa
7
của Quản Cơ Trần Văn Thành (1867 - 1873). Nhiều đệ tử của Phật thầy Tây An
anh dũng chống Pháp đã được tín đồ tôn thờ và cúng viếng hàng năm như: Đức
Cố Quản Trần Văn Thành, Ông Đình Tây (Bùi Văn Tây), Ông Cử Đa (Nguyễn
Thành Đa)…
Sau khi các cuộc khởi nghĩa chống Pháp nói trên bị thất bại, thực dân Pháp
thẳng tay đàn áp tàn bạo, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương không còn phát triển như trước
(khẩn hoang, lập trại ruộng) mà xuất hiện dưới hình thức giảng đạo. Phật giáo Hoà
Hảo và Tứ Ân Hiếu Nghĩa cũng là chi phái của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Đức Bổn Sư (Ngô Lợi), là môt trong các học trò ưu tú của Phật thầy Tây
An, đã sáng lập ra đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tại Châu Đốc năm 1867. Ông Ngô Lợi
(1831 - 1890) quê tại Mỏ Cày, Bến Tre, tham gia nghĩa quân chống thực dân
Pháp. Bị đàn áp, Ông trốn lên vùng Bảy Núi khai hoang và lập ấp. Năm 1851
đến 1866, Ông viết một số sách kinh, đi rao giảng và khuyên người đời không
nên ham lấy công danh phú quý, phải biết yêu thương đồng bào, nhân loại, có
trách nhiệm với đất nước khi có giặc ngoại xâm. Ông vừa khuyên người đời nên
tu nhân tích đức, vừa bốc thuốc chữa bệnh (lúc này bệnh dich đang hoành hành),
nên thu hút hàng vạn người tìm đến để chữa bệnh và học đạo.
Mồng 5 tháng 5 âm lịch (1867), Ông chính thức truyền đạo và dạy nghi
thức hành đạo. Ban đầu ông cho lập chùa tại xã Bình Long (Châu Phú). Nhưng
do thực dân Pháp nghi ngờ, nên Ông dẫn nhiều tín đồ vào núi Tượng để “trảm
khảo, khai sơn”, xây dựng xóm làng mới. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa phát triển
nhanh và gắn liền với quá trình hình thành và phát triển những làng đạo, vùng
đất mới của những người nông dân mất ruộng, địa bàn hội tụ của những người
yêu nước.
Suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, đại bộ phận tín đồ Tứ Ân Hiếu
Nghĩa ở An Giang đã anh dũng tham gia đấu tranh cách mạng. Các xã có đông
tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa như Ba Chúc, Lương Phi, Lê Trì, Vĩnh Gia, Lạc Quới,
Long Sơn đều được phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
8
dân". Đó là niềm tự hào của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa, những người nông dân
bình dị yêu nước.
Khi nói đến lịch sử hình thành và phát triển của đạo Phật giáo Hoà Hảo
phải kể đến người sáng lập là Huỳnh Phú Sổ. Ông là người thông minh, có khiếu
làm văn vần, học đến bằng sơ học Pháp - Việt. Ông mắc bệnh không chữa khỏi,
có người khuyên đến chữa ở ông Lê Hồng Nhật, một môn đệ của Đức Phật thầy
Đoàn Minh Huyên. Sau khi chữa khỏi bệnh, Ông theo Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Năm 1937, Huỳnh Phú Sổ về quê, gặp lúc thiên tai mất mùa, dân đói ăn
thiếu mặc, ốm đau không thuốc chữa trị. Ông dùng thuốc nam chữa bệnh cho
dân không lấy tiền. Ông dùng sấm Trạng Trình để đoán thiên cơ, tự xưng là Phật
Thầy Tây An mượn xác phàm về để cứu độ chúng sinh. Từ đó người dân gọi
ông là “Thầy Tư Hoà Hảo”. Người nông dân An Giang lúc bấy giờ sống cơ cực
dưới ách áp bức bóc lột của thực dân, phong kiến; lại luôn đói khổ vì thiên tai.
Cuộc sống bế tắc nên phần nhiều họ muốn tìm đến với giáo lý của Huỳnh Phú
Sổ; quần chúng nhập môn theo đạo ngày càng đông, đạo Hòa Hảo ra đời từ đó.
Bên cạnh các tôn giáo trên, ở An Giang còn có 194 đình thần, dinh, miếu,
đền thờ, am cốc theo phong tục tập quán của người Kinh, Hoa, Khmer. Các hoạt
động tín ngưỡng dân gian thu hút khá đông quần chúng như: Miếu Bà Chúa Xứ
núi Sam, Lăng Thoại Ngọc Hầu, Dinh Đức Cố Quản Trần Văn Thành. Hàng
năm, vào các ngày lễ, giỗ, có hàng triệu lượt người về dự. Riêng Miếu Bà Chúa
Xứ có từ thuở Thoại Ngọc Hầu (một viên quan của Triều đình nhà Nguyễn) đến
An Giang khai hoang lập ấp. Miếu Bà Chúa Xứ tọa lạc tại vùng Núi Sam, thị xã
Châu Đốc. Tượng Bà Chúa Xứ trước ngự trên đỉnh núi Sam đến đầu thế kỷ XIX
dân làng Vĩnh Tế phát hiện được mới rước xuống núi và lập miếu thờ. Miếu
được lập vào đầu thế kỷ XIV (khoảng 1820-1825), lúc đầu làm bằng tre lá đơn
sơ. Qua nhiều lần sửa sang, đến năm 1972, Miếu được xây dựng lại qui mô và
tráng lệ theo kiểu hình khối tháp, có bốn tầng mái cong lợp ngói óng, tráng men
xanh với nghệ thuật chạm gỗ rất tinh xảo. Toàn khu Miếu Bà là một công trình
nghệ thuật tiêu biểu cho sự hài hòa của nền kiến trúc truyền thống, dân tộc và
9
hiện đại tạo thành khu danh thắng của An Giang. Miếu đã được Bộ Văn hóa
thông tin công nhận và xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa năm 1989.
Pho tượng Bà Chúa Xứ gắn liền với huyền thoại, với nhiều cách giải
thích. Có một truyền thuyết được dân gian truyền tụng từ đời này qua đời khác
và được nhiều sách vở ghi chép lại cho đến nay như sau: cách đây gần 200 năm,
lúc bấy giờ tượng Bà còn ngự trên đỉnh núi Sam, bị giặc Xiêm phá hoại. Chúng
tìm cách khiêng đi nhưng không thể nào xê dịch được. Sau đó, có một bé gái
được "Bà đồng" mách bảo: “Hãy chọn chín cô gái đồng trinh để đem bà xuống
núi”. Dân làng làm theo và lạ thay pho tượng được chuyển đi dễ dàng, nhưng
khi đến chân núi thì không thể xê dịch được nữa. Từ đó dân làng dựng lên ngôi
miếu để thờ. Hôm đó là ngày 25 tháng 4 âm lịch, dân làng lấy ngày này làm
ngày lễ vía Bà. Lễ hội Bà Chúa Xứ núi Sam hàng năm thoạt đầu chỉ do dân làng
tham gia cúng tế, dần dần lượng du khách từ khắp nơi trong cả nước về đây trẩy
hội rất đông. Có thể nói đây là một lễ hội dân gian lớn nhất ở Đồng bằng sông
Cửu Long. Những năm gần đây, di tích đã thu hút hàng triệu lượt du khách đến
chiêm bái và tham quan .
Như trên đã trình bày, An Giang là tỉnh có nhiều tôn giáo, trong đó có cả
tôn giáo ngoại nhập và tôn giáo nội sinh. Tôn giáo nào cũng ra sức củng cố đức
tin cho tín đồ thông qua lễ nghi sinh động, giáo luật luôn cải sửa cho thích nghi
với đời sống xã hội, cơ sở thờ tự tu sửa khang trang, nhiều tu sĩ được đào
tạo nên hoạt động thu hút đông đảo tín đồ đến nơi thờ tự. Một số tín đồ trẻ, tuy
có ý thức thoát ly dần sự ràng buộc của giáo hội để lao vào cuộc sống tìm cơ hội
lập thân, lập nghiệp, nhưng khi gặp khó khăn trắc trở, họ chưa đủ sức vượt qua,
nên lại tìm đến giáo hội cầu xin sự hỗ trợ vật chất hoặc chỗ dựa tinh thần. Do
đó, tín đồ các tôn giáo này vẫn không ngừng tăng lên.
Sau ngày giải phóng (1975), đồng bào có đạo ở An Giang ngày càng tin
tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, thấu suốt chính sách nhất quán đúng
đắn của Đảng và Nhà nước về tôn giáo. Họ ý thức được đó là cơ hội lớn của tín
đồ, tổ chức tôn giáo thực hiện nguyện vọng “tốt đời, đẹp đạo”. Do đó, họ yên
10
tâm hành đạo, ý thức chấp hành pháp luật ngày càng nâng cao hơn, sự mặc cảm
là người có đạo giảm dần. Các chức sắc, tu sĩ nhìn chung đã có ý thức gắn bó
với dân tộc, tuân thủ pháp luật, tích cực hưởng ứng công cuộc đổi mới đất nước,
nhiều người tham gia vào Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và cơ quan dân cử các cấp.
Một số chức sắc, tu sĩ lợi dụng sơ hở của pháp luật và việc quản lý của chính
phủ để phát triển đạo. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức hạn chế, một bộ phận tín
đồ bị lợi dụng dẫn đến ý thức chấp hành pháp luật còn hạn chế; thậm chí còn có
bộ phận nhẹ dạ, cả tin nghe lời xúi giục và kích động của các phần tử xấu. Một
bộ phận nhỏ chức sắc, tu sĩ có thái độ chính trị phức tạp, cực đoan, khi bị đấu
tranh xử lý từng bước đã có chuyển biến .
Trong thời kỳ mới, mối quan hệ quốc tế các tôn giáo ngày càng mở rộng
và cũng phát sinh nhiều mặt phức tạp. Một số tôn giáo có mối quan hệ quốc tế,
cũng như một bộ phận “hải ngoại” của các tôn giáo không có quan hệ quốc tế
(Cao Đài, Hoà Hảo) đều thường xuyên tác động vào nội địa. Một số giáo sĩ được
Nhà nước cho phép đi nước ngoài nhưng do các cơ quan chức năng chưa có biện
pháp quản lý chặt chẽ, đồng bộ, nên một số người lợi dụng cơ hội này để cấu kết
với các thế lực thù địch.
Các thế lực thù địch ngoài nước luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để thực
hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, tạo ra nguyên cớ để can thiệp vào công việc
nội bộ của ta, kích động các phần tử phản động trong nước hoạt động chống phá.
* Ảnh hưởng của tình hình tôn giáo, tín ngưỡng đối với an ninh trật tự
tại địa phương.
Ở An Giang, tôn giáo và dân tộc luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau. Phật giáo Tiểu thừa Nam tông tồn tại và phát triển ở cộng đồng dân tộc
Khmer Crôm. Ngay từ khi Chúa Nguyễn khai hoang vùng đất An Giang, đồng
bào dân tộc Chăm đã gắn bó mật thiết với Hồi giáo. Phật giáo Đại thừa phổ biến
chủ yếu trong đồng bào dân tộc Kinh và Hoa. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có phần
lớn tín đồ tập trung ở huyện Tri Tôn. Phật giáo Hòa Hảo tập trung đông nhất
cũng ở các huyện Chợ Mới, Tân Châu, Phú Tân, An Phú Do quan hệ chặt chẽ
11
giữa dân tộc và tôn giáo, nên đời sống văn hoá tín ngưỡng của nhân dân An
Giang có những nét đặc sắc riêng.
Phật giáo
Ở An Giang, Phật giáo có 778.431 tín đồ (87.450 người Khmer) trong đó
có 645 chức sắc, sinh hoạt tại 319 cơ sở thờ tự (64 chùa Khmer). Dưới chế độ mới,
các hoạt động của Phật giáo gắn bó với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục phát
huy được truyền thống yêu nước, tích cực hoạt động từ thiện cứu trợ. Tuy nhiên có
một số tăng ni, phật tử đã lợi dụng sinh hoạt tôn giáo để vụ lợi.
Đa số sư sãi người Khmer còn trẻ, trình độ học vấn còn hạn chế, nên vai
trò xã hội giảm. Tuy đã tách dần khỏi sự chi phối của Phật giáo ở Campuchia,
gắn bó chặt chẽ trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nhưng Phật giáo ở An
Giang vẫn còn chịu ảnh hưởng nhất định từ bên ngoài.
Những hoạt động chính trị quá khích của nhóm Phật giáo Thống nhất cũ,
tuy có tác động đến Phật giáo An Giang, nhưng không làm ảnh hưởng nhiều đến
mặt tích cực của Phật giáo trong tỉnh.
Công giáo
Công giáo có 60.225 tín đồ, 56 chức sắc (2 giám mục, 58 linh mục) 261 tu
sĩ, 52 cơ sở thờ tự và 1 Toà Giám mục Giáo phận. Tôn giáo ở An Giang hoạt
động theo Thư chung của Hội đồng Giám mục “Sống phúc âm giữa lòng dân
tộc, phục vụ hạnh phúc đồng bào”, ý thức dân tộc và trách nhiệm công dân của
giáo dân nâng lên. Một mặt họ luôn luôn tôn trọng và “thân thiện với chính
quyền”, không vi phạm pháp luật, tạo căng thẳng, nhưng mặt khác họ tranh thủ
chính sách đổi mới và khai thác những sơ hở của ta để tập trung củng cố tổ chức
cơ sở, củng cố đức tin ở thanh thiếu niên và thường thông qua hoạt động từ thiện
phát triển tín đồ.
Hội đồng Giáo xứ với hoạt động tích cực của các hội đoàn đã vượt qúa
nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo. Một số hội đoàn bất hợp pháp tuy đã bị giải tán,
nhưng vẫn lén lút tìm cách khôi phục lại để phục vụ mục tiêu của Giáo hội là
phát triển đạo và nắm quần chúng.
12
Phật giáo Hòa Hảo
Phật giáo Hòa Hảo có 791.715 tín đồ, 110 chức viện (đại diện Phật giáo
Hòa Hảo), 04 cơ sở thờ tự. Đại đa số tín đồ là nông dân yêu nước, sinh hoạt tôn
giáo bình thường, có ý thức chấp hành chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích
cực tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương.
Ban đại diện Phật giáo Hòa Hảo được Nhà nước công nhận tư cách pháp
nhân, là tổ chức duy nhất hợp pháp của Đạo. Ban đại diện đã hướng dẫn tín đồ
tu hành thuần tuý và hoàn thành nghĩa vụ công dân, góp phần đấu tranh làm thất
bại âm mưu của kẻ thù lợi dụng Phật giáo Hòa Hảo để chống phá chế độ. Song
hoạt động của Ban đại diện khá phô trương, hình thức, có tính chất “độc tôn tín
ngưỡng”, tranh chấp chùa chiền với một số tôn giáo khác, làm ảnh hưởng nhất
định đến an ninh trật tự và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.
Tin Lành
Tin Lành có 3270 tín đồ, 5 chức sắc, 5 cơ sở thờ tự. Tôn giáo này sinh
hoạt bình thường, nhưng từ sau khi Tổng Liên Hội được Nhà nước công nhận tư
cách pháp nhân, đã bung ra hoạt động đòi lại tài sản, tập hợp hầu hết thanh thiếu
niên vào hội đoàn, thông qua sự giúp đỡ của thân nhân ở nước ngoài, dùng vật
chất lôi kéo hàng trăm người nghèo vào đạo (có 11 người Khmer, 18 người là
Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài).
Hồi giáo
Hồi giáo có khoảng 14.274 tín đồ người Chăm, 11 chùa lớn, 15 chùa nhỏ,
131 chức sắc, 11 thánh đường và 16 tiểu thánh đường. Tín đồ Hồi giáo An
Giang chủ yếu là người lao động, sống tập trung thành xóm tại một số khu vực
thuộc các huyện An Phú, Phú Tân, Tân Châu và Châu Phú. Các sinh hoạt tôn
giáo quan trọng của Đạo Hồi như: Tháng ăn chay Ramadan, Kỷ niệm ngày sinh
Giáo chủ Mohammad Hồi giáo đã được Nhà nước quan tâm tạo điều kiện xây
dựng lại cơ sở thờ tự, đảm bảo sinh hoạt tôn giáo bình thường; chính quyền các
cấp còn giúp đỡ họ tổ chức sinh hoạt tôn giáo, gắn với sinh hoạt văn hoá mang
đặc trưng dân tộc Chăm của địa phương. Vài năm gần đây, Nhà nước giúp vốn
13

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét