Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006- 2010

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự
chuyển đổi theo một xu hướng chung là tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm
đi, trong khi đó tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng
lên.
1.2. Những nội dung của cơ cấu ngành kinh tế.
Thứ nhất là số lượng các ngành kinh tế được hình thành. Số ngành kinh tế không
cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát triển của phân công lao động xã
hội. Nhà kinh tế học Collin Clark căn cứ vào tính chất chuyên môn hoá của sản
xuất đã chia thành 3 nhóm ngành: Ngành thứ nhất sản xuất những sản phẩm dựa
trên cơ sở khai thác các nguồn tài nguyên, bao gồm nông nghiệp và công nghiệp
khai thác. Ngành thứ hai có chức năng gia công và chế biến sản phẩm có nguồn
gốc từ ngành thứ nhất, đó là ngành công nghiệp chế biến. Hai ngành này đều là
những ngành sản xuất của cải vật chất hữu hình. Còn ngành thứ ba là ngành sản
xuất các sản phẩm vô hình. Cách phân loại của Clark có ảnh hưởng rộng rãi và
đã được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. Tuy vậy cũng có nhiều cách phân loại
khác nhau. Để thống nhất cách phân loại ngành, Liên Hợp Quốc đã đưa ra cách
phân loại các ngành theo tiêu chuẩn quốc tế. Theo tiêu chuẩn này, có thể gộp các
ngành phân loại thành ba khu vực. Khác với cách phân loại của Clark, theo tính
chất công việc Liên Hợp Quốc xếp công nghiệp khai thác vào khu vực II – là khu
vực công nghiệp. Như vậy, khu vực I là khu vực nông nghiệp và khu vực III là
khu vực dịch vụ.
Kế đến, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các ngành
với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và chất lượng. Mặt số lượng
thể hiện ở tỷ trọng (tính theo GDP, lao động, vốn…) của mỗi ngành trong tổng
thể nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan
trọng của từng ngành và tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với
nhau. Sự tác động qua lại giữa các ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác
động trực tiếp bao gồm tác động cùng chiều và ngược chiều, còn mối quan hệ
gián tiếp được thể hiện theo các cấp 1,2,3…
Quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp là mối quan hệ truyền thống , xuyên
suốt mọi giai đoạn phát triển của xã hội. Nông nghiệp yêu cầu cần có sự tác động
của công nghiệp đối với tất cả các yếu tố đầu vào, cũng như tiêu thụ sản phẩm
đầu ra. Công nghiệp cung cấp cho nông nghiệp phân bón hóa học, thuốc trừ sâu,
các công cụ sản xuất, máy móc, thiết bị phục vụ cho việc cơ giới hóa sản xuất.
Sản phẩm nông nghiệp qua chế biến sẽ được nâng cao về chất lượng và hiệu quả:
Làm cho sản phẩm trở nên đa dạng về mẫu mã, phong phú về khẩu vị, vận

- 5 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
chuyển và dự trữ được thuận lợi. Ngược lại, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến, thực phẩm cho công nhân lao động, cho mở rộng hoạt
động sản xuất công nghiệp và là thị trường tiêu thụ lớn các sản phẩm 2 công
nghiệp.
Ngoài hai lĩnh vực sản xuất vật chất là nông nghiệp và công nghiệp nêu trên, tập
hợp các ngành sản xuất phi vật chất còn lại bao hàm trong khối các ngành dịch
vụ. Khối ngành này bao gồm những ngành gọi là “dịch vụ trung gian”: vận tải,
thông tin, trung gian tài chính, điện, phân phối xây dựng, dịch vụ thương mại và
những ngành “dịch vụ thỏa nhu cầu cuối cùng” du lịch và đi lại, chăm sóc sức
khỏe và các dịch vụ về môi trường…Nếu như công nghiệp và nông nghiệp được
gọi là các ngành sản xuất vật chất, thựchiện chức năng sản xuất trong quá trình
tái sản xuất thì ngành dịch vụ lại đảm nhận nhiệm vụ đưa những sản phẩm của 2
ngành trên vào tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho đời sông thông qua quá
trình phân phối và trao đổi. Không có sản phẩm hàng hóa thì không có cơ sở cho
sự tồn tại của các hoạt động dịch vụ. Sản xuất hàng hóa càng phát triển thì đời
sống nhân dân càng được nâng cao, nhu cầu dịch vụ càng lớn. Như vậy, sự tác
động qua lại giữa các ngành tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế.
Mối quan hệ của các ngành cả về số lượng và chất lượng đều thường xuyên biến
đổi và ngày càng trở nên phức tạp theo sự phát triển của lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế.
2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và ý nghĩa nghiên cứu của nó.
2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái
này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và
điều kiện phát triển. Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là sự thay đổi về số
lượng các ngành, tỷ trọng mỗi ngành mà còn còn bao gồm sự thay đổi về vị trí,
tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành
phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo
cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn
thiện và bổ sung cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn.
Thực chất của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự phát triển không đều giữa
các ngành. ngành có tốc độ phát triển cao hơn tốc độ phát triển chung của nền
kinh tế thì sẽ tăng tỷ trọng và nghiên cứu lại, ngành có tốc độ phát triển thấp hơn
sẽ giảm tỷ trọng. Nếu tất cả các ngành có tốc độ tăng trưởng như nhau thì tỷ

- 6 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
trọng các ngành sẽ không đổi, nghĩa là không có chuyển dịch cơ cấu ngành.
Nhưng trong thực tế điều này ít xảy ra. Trong quá trình phát triển, cơ cấu ngành
kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo xu hướng tỷ trọng của ngành
nông, lâm nghiệp và thủy sản ngày càng giảm trong khi tỷ trọng của các ngành
công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
Tỷ trọng kỳ sau = Tỷ trọng kỳ trước ngành X x Tốc độ phát triển của X
ngành X tốc độ phát triển chung
Ví dụ: năm 2005, ngành nông nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng khá đạt 4,0%
nhưng vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (8,4%), nên tỷ trọng giảm
từ 21,8% năm 2004 xuống còn 20,9% năm 2005. Ngược lại, ngành công nghiệp
và xây dựng có tốc độ tăng trưởng là 10,6% nên tỷ trọng của ngành này trong
GDP cũng tăng từ 40,2% năm 2004 lên 41,1% năm 2005.
2.2. Ý nghĩa nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế.
Xét trên khía cạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế thì dạng cơ cấu ngành được
xem là quan trọng nhất, được quân tâm nghiên cứu nhiều nhất vì nó phản ánh sự
phát triển của khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao động
chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất. trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu phản
ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành là một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự phát triển kinh tế.
Ngược lại nhịp độ phát triển, tính chất bền vững của quá trình tăng trưởng lại phụ
thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp với những điều
kiện bên trong, bên ngoài và các lợi thế tương đối của nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với sự phát triển chung của
nền kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng vì gắn với nó là cả một động thái về sự
phân bố các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong những thời điểm nhất
định vào những hoạt động sản xuất riêng. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện
tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực. Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và
khu vực ngày càng phát triển thì việc lựa chọn và chuyển dịch hợp lý cơ cấu
ngành thể hiện được các lợi thế tương đối và khả năng cạnh tranh của một quốc
gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho sự chủ động tham gia và thực hiện
hội nhập thắng lợi.

- 7 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
3. Những chỉ tiêu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
3.1. Cơ cấu GDP
Tỷ lệ phần trăm GDP của các ngành cấp I (khu vực nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ) là một trong những tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế.
Để đánh giá sát thực hơn sự chuyển dịch cơ cấu ngành, việc phân tích cơ cấu các
phân ngành (cấp II, cấp III…) có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông thường, cơ
cấu ngành phản ánh sát hơn khía cạnh chất lượng và mức độ hiện đại hóa của
nền kinh tế. Ví dụ, trong khu vực công nghiệp, những ngành công nghiệp chế
biến đòi hỏi tay nghề kỹ thuật cao, vốn lớn hay công nghệ hiện đại như cơ khí
chế tạo, điện tử công nghiệp, dược phẩm, hóa mỹ phẩm… chiếm tỷ trọng cao sẽ
chứng tỏ nền kinh tế đạt mức độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa cao hơn so với
những lĩnh vực khai khoáng, sơ chế nông sản, công nghiệp lắp ráp… Trong khu
vực dịch vụ, những lĩnh vực dịch vụ chất lượng cao, gắn với công nghệ hiện đại
như bảo hiểm, ngân hàng, tư vấn, viễn thông, hàng không… chiếm tỷ trọng rất
cao sẽ rất khác bới những lĩnh vực dịch vụ phục vụ sinh hoạt dân cư với công
nghệ thủ công hoặc trình độ thấp, quy mô nhỏ lẻ.
3.2. Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế.
Cơ cấu lực lượng lao động đang làm việc trong nền kinh tế là chỉ tiêu phản ánh
sát thực nhất mức độ thành công về mặt kinh tế - xã hội của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động phân theo ngành được đánh gía cao và coi
trọng hơn vì chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực hơn mức độ chuyển biến
sang xã hội công nghiệp của một đất nước, mà nó còn ít bị ảnh hưởng bởi các
nhân tố bên ngoài trong khi cơ cấu GDP lại chịu ảnh hưởng của tình trạng méo
mó về giá cả. Tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động thậm chí còn
được một số nhà kinh tế xem như chỉ tiêu quyết định nhất để đánh giá mức độ
thành công của quá trình công nghiệp hóa trong nghiên cứu so sánh giữa các nền
kinh tế.
4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong qúa trình phát triển.
Cơ cấu ngành kinh tế có thể được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Nếu xem
xét dưới góc độ các yếu tố đầu vào thì ta có cơ cấu lao động, cơ cấu kĩ thuật .

- 8 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Thông thường thì cơ cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản
ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành. Sự chuyển dịch này mang tính quy luật, đó là
khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỉ trọng nông nghiệp trong GDP sẽ có xu
hướng giảm xuống còn tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi nền
kinh tế bước sang những giai đoạn phát triển cao thì tốc độ tăng của ngành dịch
vụ sẽ càng cao hơn so với tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trong ngành công
nghiệp tỉ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao ngày càng
lớn và gia tăng với tốc độ nhanh, tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung
lượng lao động sẽ giảm dần. Đối với ngành dịch vụ, theo sự phát triển kinh tế,
các ngành dịch vụ chất lượng cao như: tài chính, ngân hàng, luật, bảo hiểm, giáo
dục, y tế, du lịch… sẽ có tốc độ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao. Thực tế cho
thấy ràng khu vực dịch vụ là khu vực có tỷ trọng ngày càng gia tăng, nhất là khi
nền kinh tế đã đạt đến một mức độ công nghiệp hóa nhất định, khi đó con người
có mức thu nhập cao hơn, nảy sinh các nhua cầu về các dịch vụ mới hơn để nâng
cao chất lượng cuộc sống của họ. Ở nhiều nước công nghiệp phát triển, yốc độ
tăng trưởng của khu vực dịch vụ đã vượt xa tốc độ tăng trưởng của ngành sản
xuất công nghiệp. Hiện tại, dịch vụ đã chiếm tới ¼ tổng kim ngạch thương mại
giữa các quốc gia và hơn một nửa khối lượng giao dịch của các chi nhánh công
ty đa quốc gia trên toàn thế giới. Theo số liệu năm 2003 (Báo cáo phát triển thế
giới 2005) thì tỉ trọng trong GDP của ngành dịch vụ ở các nước có thu nhập cao
chiếm tới 71%, con số này ở Mỹ là 75%, Pháp 72%, Nhật 68%, Úc 71% trong
khi đó tỷ trọng dịch vụ chiếm trong GDP ở các nước có thu nhập thấp chỉ đạt
khoảng 50%.
Điều này có thể được lý giả một cách dễ dàng. Theo các nhà kinh tế học, lương
thực, thực phẩm được coi là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản
phẩm tiêu dùng lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Khi
thu nhập của các hộ gia đình tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho các hàng hóa thiết yếu
giảm xuống tất yếu dẫn đến tỉ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế sẽ giảm đi.
Thực tế ở các nước phát triên đã chứng minh, thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu
cho hàng tiêu dùng tăng phù hợp với tốc độ tăng của thu nhập, còn chi tiêu cho
hàng hóa cao cấp thì có tốc độ tăng nhanh hơn.
Tuy tất cả các nước có xu hướng chuyển dịch cơ cấu như nhau nhưng tốc độ
chuyển dịch lại không giống nhau vì bị chi phối bởi các yếu tố khác về tự nhiên,
nhân lực, điều kiện kinh tế, kĩ thuật và văn hóa mỗi nước. Ở Việt Nam trong
khoảng 20 năm trở lại đây, cùng với việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nhanh,
cơ cấu ngành cũng có sự chuyển dịch đáng kể. Nhìn chung sự thay đổi này phù
hợp cới xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng của công
nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế. Điều này làm cho GDP của Việt

- 9 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Nam tăng liên tục với tốc độ khá cao trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa.
Ngành nông nghiệp trong khoảng 15 năm trở lại đây đã giảm đi 17% trong cơ
cấu ngành (từ 38,74% năm 1990 xuống còn 20,9% năm 2005), công nghiệp và
xây dựng đã tăng thêm tương ứng ( từ 22,67% năm 1999 lên 41,0% năm 2005).
Tuy vậy, ngành dịch vụ trong 15 năm qua nhìn chung không có sự biến đổi tích
cực, có biẻu hiện giảm về tỷ trọng (năm 1999 là 38,59% đến năm 2005 chỉ còn
38,1%). Hạn chế này cùng với những yêu cầu về sự điều chỉnh nhất định trong
nội bộ ngành nông nghiệp, công nghiệp chính là những nhiệm vụ đặt ra nhằm
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nước ta trong thời gian tới.
Song song với sự chuyển dịch cơ cấu ngành theo GDP là sự chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế theo việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng
cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng
cao năng suất lao động. Kết quả là xã hội không cần đến lực lượng lao động như
cũ mà vẫn đảm bảo được lương thực, thực phẩm, điều đó có nghĩa là tỉ lệ lao
động trong nông nghiệp sẽ giảm. Ngược lại, tỉ lệ lao động được thu hút vào công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng do tính co dãn về nhu cầu sử dụng sản phẩm
của cả hai khu vực và khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật
để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ.
Theo nguồn thống kê mới nhất, thì từ thời điểm năm 2001, ở Việt Nam, trong số
gần 1 triệu lao động tăng thêm hàng năm, đã có khoảng hơn 600.000 người đi
vào khu vực công nghiệp và xây dựng, gần 400.000 người đi vào khu vực dịch
vụ, nghĩa là cứ 100 người mới gia nhập thị trường lao động thì không có một ai
đi vào khu vực nông, lâm nghiệp mà tất cả đều đi vào khu vực phi nông nghiệp.
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử công nghiệp hóa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt
tới “điểm ngoặt” về chuyển dịch cơ cấu lao động, chia theo lao động, tức là thời
điểm mà ở đó, lao động nông, lâm nghiệp không chỉ giảm đi về tỷ trọng mà còn
bắt đầu giảm đi về số lượng tuyệt đối.

- 10 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II:
ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010.
I. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
1. Khái niệm kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành là một bộ phận trong hệ thống phát triển
kinh tế - xã hội. Nó xác định các mục tiêu cần đạt được về cơ cấu ngành kinh tế
và đưa ra các giải pháp, chính sách cần thiết để thực hiện mục tiêu đó trong thời
kỳ kế hoạch.
2. Nhiệm vụ của kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Tuy tất cả các nước có xu hướng chuyển dịch cơ cấu như nhau nhưng tốc độ
chuyển dịch không giống nhau vì bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác về tự nhiên,
nhân lực, điều kiện kinh tế, kĩ thuật và văn hoá mỗi nước. Và để đạt được các
mục tiêu về tăng trưởng và phát triển kinh tế thì mỗi quốc gia cần có một bản kế
hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành riêng của nước mình. Nhìn chung thì kế hoạch
chuyển dịch cơ cấu ngành của các quốc gia có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Xác định các điều kiện, yếu tố và các quan điểm chi phối sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Đây chính là cơ sở để đưa ra các hướng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Nó bao hàm các vấn đề về kinh tế- xã hội, khoa
học, công nghệ, các mối quan hệ kinh tế quốc tế và các nguồn lực
của đất nước.
- Xác định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cụ thể hóa bằng các
quan hệ tỷ lệ giữa các ngành sao cho đảm bảo phù hợp với xu thế
biến đổi chung và phản ánh được đặc điểm của nền kinh tế trong
những điều kiện cụ thể.
- Xác định hướng huy động và sử dụng các yếu tố đầu vào đặc biệt là
cơ cấu vốn đầu tư và cơ cấu lao động nhằm đảm bảo được cơ cấu
đầu ra theo hướng đã xác định.
- Đề xuất các chính sách, biện pháp kinh tế - xã hội xần thiết để
hướng dẫn hoạt động nền kinh tế sao cho đáp ứng được các yêu cầu
của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.


- 11 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
II. Đánh giá thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của
Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010.
1. Những thành tựu và tồn tại của công cuộc chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005.
1.1. Cơ cấu GDP
2001-2005 là giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển
tương đối ổn định và bền vững. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 -
2005) tăng bình quân 7,5%/năm (đạt kế hoạch đề ra). Năm 2005, GDP theo giá
hiện hành đạt 839 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương
đương khoảng 640 USD). Tuy nhiên, đây mới chỉ là những con số thống kê sơ
bộ, khái quát để hiểu rõ sự phát triển của nền kinh tế VN trong 5 năm 2001- 2005
chúng ta cần phải xem xét kĩ lưỡng từng khía cạnh của nền kinh tế dưới nhiều
góc độ khác nhau. Cụ thể ở đây là sự chuyển biến trong cơ cấu ngành kinh tế của
Việt Nam.
Bảng 2. Tình hình thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
giai đoạn 2001 – 2005.
Đơn vị tính: %
STT Chỉ tiêu Mục tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 5năm
2001-2005
1 Tăng trưởng kinh tế 7,5 6,89 7,08 7,34 7,79 8,4 7,5
- Nông, lâm và thủy
sản
4,3 3,0 4,2 3,6 4,4 4,0 3,8
- Công nghiệp và xây
dựng
10,8 10,4 9,5 10,5 10,2 10,6 10,2
- Dịch vụ 6,2 6,1 6,5 6,5 7,3 8,5 7,0
2 Tốc độ tăng giá trị
sản xuất
- Nông, lâm và thủy
sản
4,8 4,7 6,5 5,5 5,8 4,9 5,4
- Công nghiệp và xây
dựng
13,1 14,6 14,8 16,8 16,0 17,2 16,0
3 Cơ cấu kinh tế
- Nông, lâm nghiệp và
thủy sản
20 - 21 23,3 23,0 22,5 21,8 20,9
- Công nghiệp và xây
dựng
38 - 39 38,1 38,5 39,5 40,2 41,0
- Dịch vụ 41 - 42 38,6 38,5 38,0 38,0 38,1
Nguồn: tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê

- 12 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Cơ cấu ngành kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Tỷ trọng của khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản thì giảm dần trong khi
tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ thì tăng lên đáng kể. Năm 2001, tỷ
trọng của khu vực nông nghiệp là 23,3% nhưng đến năm cuối cùng của kỳ kế
hoạch 5 năm, năm 2005 thì tỷ trọng của ngành này chỉ còn có 20,9%. Như vậy
sau 5 năm, tỷ trọng của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 2,4%. Trái
ngược với sự giảm xuống về tỷ trọng của ngành nông nghiệp là sự tăng lên về tỷ
trọng của ngành công nghiệp và xây dựng. Từ 38,1% năm 2001 đến năm 2005
con số này đã là 41%, tăng 2,9% (vượt chỉ tiêu kế haọch đề ra. Ngành dịch vụ
vẫn giữ được vị thế quan trọng của mình khi chiếm tới 38,1% trong GDP, vượt
xa đóng góp của khu vực nông nghiệp và gần bằng tỷ trọng của công nghiệp.
Xét về mối quan hệ tương quan giữa các ngành, chúng ta có thể thấy, ngành công
nghiệp và xây dựng là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất và cao nhất
10,2%, gấp 1,36 lần mức tăng GDP của toàn nền kinh tế (7,5%) và gấp 2,7 lần
ngành nông nghiệp. Ngành dịch vụ có mức tăng xấp xỉ mức tăng GDP của cả
nền kinh tế nên tỷ trọng không đổi, duy trì ở mức 38%. Dù đạt tốc độ tăng trưởng
gần gấp 3 lần so với ngành dịch vụ, nhưng vì quy mô tuyệt đối nhỏ hơn, nên mức
độ thay đổi tương quan tỷ lệ giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp không
nhanh tương ứng với mức tăng trưởng công nghiệp.

Sự tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp và một số ngành dịch vụ đã tạo
nên sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế, bước đầu hình thành được một số
ngành, sản phẩm quan trọng tạo động lực cho phát triển như: công nghiệp dầu
khí, sản xuất thép, xi măng, cơ khí đóng tàu, lắp ráp ô tô, xe máy
Về sự chuyển dịch trong nội bộ từng ngành. Trong 5 năm 2001 – 2005, ngành
nông, lâm nghiệp và thủy sản vượt qua nhiều khó khăn, duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá, tăng 5,4% trong khi kế hoạch đặt ra là 4,8%. Trong nội bộ của ngành
đã có sự thay đổi nhất định, trong đó rõ rệt nhất là sự gia tăng của ngành thủy sản
và sự suy giảm về tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp. Đây là một tín hiệu đáng
mừng cho thấy sự được theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của ngành.
Ngành thủy sản đã có những bước phát triển tương đối vững chắc, tỷ trọng giá trị
sản xuất thủy sản trong toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 15,6%
năm 200o lên 21,2% năm 2005. Đáng chú ý là hàng thủy sản xuất khẩu gia tăng
nhanh chóng và trở thành một trong số những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu
lớn. Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp mặc dù có sự giảm đi về tỷ trọng nhưng
vẫn đáp ứng được nhu cầu về lương thực thực phẩm trong nước và duy trì được

- 13 -
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
vị trí là một trong ba nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo (Thái Lan, Hoa
Kỳ, Việt Nam). Còn ngành lâm nghiệp vẫn tiếp tục chú trọng vào bảo vệ và
trồng rừng. Độ che phủ rừng tăng từ 33,7% năm 2000 lên 37,4% năm 2005.
Ngành công nghiệp tăng trưởng ổn định ổn định với tốc độ cao hơn nhiều so với
5 năm trước, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16% vượt mức kế hoạch đề ra (kế
hoạch là 13,1%). có thể nói khu vực công nghiệp đã thực sự đóng vai trò đầu tàu
trong sự phát triển và chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế.
Cùng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, ngành dịch vụ đã từng bước hình thành và phát triển đa
dạng, góp phần phục vụ đắc lực cho sản xuất của các ngành nông nghiệp và công
nghiệp, tốc độ tăng thêm giá trị của dịch vụ đạt nhịp độ khá cao, tăng 7,6%.
Tuy đạt được những kết quả tích cực nhưng việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh
tế còn nhiều hạn chế thể hiện chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao.
Mức tăng trưởng nông nghiệp so với mức tăng trưởng GDP của toàn bộ nền kinh
tế là khá cao, thể hiện mức đóng góp của tăng trưởng nông nghiệp cho tổng mức
GDP là khá lớn.
Về ngành công nghiệp, mặc dù vị trí và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế
quốc dân đã được nâng lên trong những năm qua nhưng trong cơ cấu nội bộ
nganh công nghiệp sự chuyển biến diễn ra vẫn còn chậm. Thực chất đóng góp
cho tăng trưởng công nghiệp trong những năm vừa qua chủ yếu vẫn là công
nghiệp khai thác khoáng ản, tỷ trọng công nghiệp chế biến và chế tạo còn rất nhỏ
bé. Trong khi đó, các ngành công nghiệp mới như công nghiệp điện tử, công
nghiệp cơ khí như xe máy, ôtô mới phát triển ở giai đoạn đầu
Riêng trong khu vực dịch vụ, trái với sự mong đợi là tỷ trọng tăng lên thì trên
thực tế hầu như không thay đổi thậm chí còn giảm từ từ 38,6% năm 2001 xuống
còn 38,1% năm 2005. Tỷ trọng của các ngành khách sạn, nhà hàng, vận tải, bưu
điện, du lịch là quá thấp (khoảng 3-4% trong GDP). Thương mại, mặc dù có tỷ
trọng yương đối lớn khoảng 13-14% GDP nhưng chủ yếu vẫn là buôn bán nhỏ.
Các loại hình dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không,
vận tải biển, dịch vụ tư vấn pháp lý chưa được phát triển. Ngành tài chính – ngân
hàng với tỷ trọng chưa đến 2% trong GDp là quá thấp.

- 14 -

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét