Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
ớng nguyên tắc cũng nh là hớng gợi mở cho sự nghiệp phát triển nghề kiểm
toán ở Việt Nam bớc vào giai đoạn mới.
2.2. Vai trò của kiểm toán nội bộ đối với sự phát triển của các tổ chức
kinh tế trong nền kinh tế.
Từ trên đây, ta có thể khẳng định rằng kiểm toán nội bộ tồn tại là một
tất yếu. Tuy nhiên, kiểm toán nội bộ nói riêng hay hoạt động kiểm toán nói
chung ở Việt Nam là còn rất mới mẻ và còn phải tăng cờng những nghiên
cứu để hoàn thiện dần. Mặt khác, việc học hỏi các nớc bạn có hệ thống hoạt
động kế toán - kiểm toán phát triển là một việc làm hết sức thiết thực bởi lẽ
việc thực hiện kiểm toán nội bộ tại các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế là hết
sức quan trọng, nó có vai trò hết sức to lớn trong việc hỗ trợ Ban quản lý và
các bộ phận khác hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu của doanh nghiệp đã đề
ra một cách có hiệu quả, tiết kiệm. Kiểm toán nội bộ là một công cụ quản lý
có hiệu quả và là sự bổ sung cần thiết cho công việc ngoại kiểm của hoạt
động kiểm toán từ bên ngoài đối với đơn vị kinh doanh. Do kiểm toán nội bộ
với nội dung chủ yếu là kiểm toán hoạt động tại đơn vị cơ sở nên có tác dụng
rất lớn trong việc sớm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi tiêu cực,
gian lận trong quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế, tài chính góp phần
nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực trong đơn vị.
Để làm rõ hơn nhận định này, ta xét vai trò của kiểm toán nội bộ trong
các mối quan hệ với các hoạt động khác trong một doanh nghiệp, với hội
đồng Giám đốc và mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán bên
ngoài.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với các hoạt động khác của một
doanh nghiệp:
Trên thực tế, sự ngừng hoạt động của bộ phận kiểm toán nội bộ trong một thời
gian không làm ảnh hởng tiến trình hoạt động của các bộ phận nghiệp vụ khác, điều
này khẳng định rằng kiểm toán nội bộ có tính độc lập của nó. Kiểm toán viên nội bộ
sẽ không thể kiểm toán nếu không có mối liên hệ với các bộ phận khác nh: kế toán, tài
chính, các bộ phận hoạt động khác qua quan hệ cung cấp số liệu và bằng chứng kiểm
toán.
Tại sao kiểm toán nội bộ có tính độ lập cao mà trong khi vẫn phải có
mối liên hệ nhất định với các bộ phận khác, và tại sao các bộ phận khác lại
cần phải giữ mối loên hệ với bộ phận kiểm toán nội bộ ?
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Sự có mặt của các kiểm toán viên nộ bộ là cần thiết đối với các hoạt
động khác trong doanh nghiệp, kiểm toán nội bộ làm việc để tăng tính đúng
đắn, hợp lệ, hợp thức và hợp pháp của các số liệu, tài kế toán, các quy trình
nghiệp vụ kế toán, đầu t, bán hàng, sản xuất,
Mục đích cuối cùng cho sự tham gia của kiểm toán nội bộ là tránh rủi ro
về các thông tin, đa ra các kiến nghị, tham vấn với các cấp lãnh đạo về những
sai sót cần giải quyết nếu có. Nhờ có sự thành thạo trong việc thiết kế và
thực hiện công việc kiểm tra mà nhóm kiểm toán nội bộ thể hiện đợc năng
lực nghề nghiệp của mình, khẳng định rằng trong một đơn vị kinh tế không
có nhóm công tác nào khác có thể kết hơp giữa vị trí tách riêng với các mục
tiêu phục vụ về mặt tổ chức cho đơn vị và với trình độ trình độ thành thạo có
chất lợng cao trong lĩnh vực kiểm tra tốt nh nhóm kiểm toán nội bộ trong mối
quan hệ với các hoạt động khác trong đơn vị mà mối quan hệ độc lập mà
ràng buộc nhất định đảm bảo đạt đợc mục tiêu toàn hệ thống.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với hội đồng Giám đốc:
Kết quả của sức ép môi trờng kinh doanh ngày càng nhiều thách thức là
sự hoạt động và điều hành của hội đồng Giám đốc từng bớc đợc nâng lên, từ
chỗ trong công ty, trong doanh nghiệp chỉ có mối liên hệ giữa giám đốc với
cổ đông, các nhân viên khác đến chỗ có mối liên hệ mở rộng với bên ngoài
với hình thức liên hiệp công ty, liên hiệp xí nghiệp. Với trách nhiệm nặng nề
này, Ban Giám đốc đã chọn cho mình một cách đi thích hợp bằng cách xác
lập và mở rộng quyền hạn của kiểm toán nội bộ trực thuộc mình. Việc thành
lập bộ phận kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp chịu ảnh hởng rất lớn của
quan điểm và nhận thức của Ban lãnh đạo vể kiểm toán. Một nhà lãnh đạo
thực sự trân trọng công tác kiểm toán là ngời có bản lĩnh trong nghề
nghiệp,là ngời biết lắng nghe ý kiến của cấp dới, có cách nhìn khách quan và
t duy logic, đó hẳn không phải là ngời chuyên quyền, độc đoán. Nh vậy kiểm
toán nội bộ tồn tại không chỉ có ý nghĩa trong việc hoàn thiện hoá hệ thống
kiểm toán mà còn góp phần khẳng định t cách, vị trí, bản lĩnh và tính đại diện
cao của các cấp lãnh đạo. Nó là công cụ để xác lập quyền hạn đủ mạnh của
các cấp quản lý trong việc đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp và thắng
trong cạnh tranh trong điều kiện gay gắt hiện nay của nền Kinh tế.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ với kiểm toán viên bên ngoài.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Có quan điểm cho rằng kiểm toán nội bộ là sự mở rộng công việc của
kiểm toán viên bên ngoài. Ngày nay quan điểm này vẫn đúng tơng đối. Nếu xét
sự khác nhau cơ bản giữa kiểm toán viên nội bộ và kiểm toán viên bên ngoài về
trách nhiệm và mục tiêu hoạt động thì quan điểm này dần thay đổi, vì trách
nhiệm của kiểm toán viên bên ngoài chịu trách nhiệm về kết quả kiểm toán trớc
các bên (bên kiểm toán và bên đợc kiểm toán, bên thứ ba: là những ngời sử
dụng thông tin đã đợc kiểm toán). Còn kiểm toán viên nội bộ thì chịu trách
nhiệm chủ yếu với tổ chức của mình. Kiểm toán viên bên ngoài đặc biệt quan
tâm tới sự đúng đắn của sự khác nhau cơ bản này không phải là tất cả để khẳng
định hai loại hình kiểm toán này không có mối quan hệ với nhau. Bởi lẽ, trong
quá trình đợc kiểm toán bởi một tổ chức bên ngoài, trong bất kỳ trờng hợp nào
kiểm toán viên nội bộ cũng phải hỗ trợ giúp kiểm toán viên bên ngoài hoàn
thành nhiệm vụ của mình đảm bảo chất lợng cuộc kiểm toán cao nhất. Bên cạnh
đó, để đảm bảo chất lợng cuộc kiểm toán, kiểm toán viên bên ngoài cũng phải
có sự hiểu biết nhất định về bộ phận kiểm toán nội bộ. Điều quan trọng là mối
quan tâm chung của cả hai loại hình kiểm toán xuất phát từ mục tiêu là đảm bảo
sự đúng đắn của hệ thống kiểm soát và kế toán. ở Mỹ, theo đạo luật 1977 về
những hành vi hối lộ nớc ngoài, các tổ chức phải duy trì hệ thống kiểm soát kế
toán nội bộ đúng đắn, đồng thời mối quan tâm của Uỷ ban chứng khoán và giao
dịch buộc phải có báo cáo của ban quản lý thông tin về sự đầy đủ của hệ thống
kiểm soát nội bộ. Nh vậy không những kiểm toán nội bộ có mối liên hệ nhất
định, những đóng góp to lớn đối với việc hoàn thành nhiệm vụ của các bộ phận
khác, giúp Ban lãnh đạo điều hành quản lý tốt mà còn hỗ trợ kiểm toán viên bên
ngoài hoàn thành cuộc kiểm toán có chất lợng để đa ra những thông tin chính
xác về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
3. Kiểm toán nội bộ trong các Tổ chức tín dụng.
Theo luật các tổ chức tín dụng thông qua trong Quốc hội khoá 10, kỳ
họp thứ 2 (12-12-1997) quy định:
Tổ chức tín dụng phải lập hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ thuộc bộ
máy điêù hành, giúp tổng Giám đốc hoặc Giám đốc điều hành thông suốt, an
toàn và đúng Pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng.
Vị trí và vai trò của kiểm toán nội bộ càng đợc khẳng định sau khi quyết
định số 03-98 QĐ/NHNN3 (3-1-1998) của Thống đốc ngân hàng Nhà nớc đ-
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
ợc ban hành vê quy chế: "Mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán
nội bộ trong tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam".
Trong điều 5 của quy định có nêu:
Tất cả các tổ chức tín dụng quy định tại điều 2, khoản 1 quy
Chế này phải thành lập bộ máy kiểm tra nội bộ chuyên trách tại trụ sở
chính và các đơn vị thành viên. Bộ máy này trực thuộc tổng giám đốc hoặc
Giám đốc.
Các tổ chức tín dụng quy định tại điều 2, khoản 1 quy chế này là:
Ngân hàng quốc doanh (bao gồm cả ngân hàng phục vụ ngời nghèo
và ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long).
Ngân hàng thơng mại cổ phần.
Các công ty tài chính (bao gồm cả các công ty tài chính 100% vốn n-
ớc ngoài, công ty tài chính liên doanh với nớc ngoài tại Việt Nam, công ty
cho thuê tài chính).
Các ngân hàng liên doanh.
Các chi nhánh ngân hàng nớc ngoài tại Việt Nam.
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ơng
4. Các yêu cầu đối với Kiểm toán nội bộ của các Tổ chức tín dụng.
4.1. Điều kiện để Kiểm toán nội bộ hoạt động.
Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban lãnh đạo và chỉ có nghĩa vụ báo cáo
với Ban lãnh đạo.
Văn bản xác định c cấu trật tự của toàn doanh nghiệp (tổ chức bộ
máy, tổ chức quy trình, c cấu quyền hạn); bản trình bầy phải rõ ràng và cập
nhật.
Hoạt động kiểm toán tất cảcác quy trình nghiệp vụ và hoạt động của
tổ chức tín dụng.
4.2. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán khả năng hoạt động, tính hiệu quả, hữu hiệu và đầy đủ của
hệ thống kiểm soát nội bộ.
Kiểm toán việc ứng dụng, khả năng hoạt động, tính hữu hiệu và đầy
đủ của hệ thống quản lý và cỏntolling rủi ro, của hệ thống thông tin báo cáo
cũng nh của hệ thống tài chính kế toán.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Kiểm toán việc tuân thủ pháp luật, các quy định hiện hành của thanh
tra cũng nh các quy định khác.
Kiểm toán việc tuân thủ những quy chế hoạt động của doanh nghiệp,
c cấu tổ chức và các quy định khác.
Kiểm toán việc tuân thủ mọi quy trình hoạt động và nghiệp vụ và các
quy định , các biện pháp bảo vệ tài sản.
4.3. Những nguyên tắc đối với Kiểm toán nội bộ.
Tính độc lập (độc lập khi thực hiện các nhiệm vụ, không bị chỉ đạo
khi viết báo cáo và đánh giá kế quả kiểm toán).
Phân tách chức năng những cán bộ của kiểm toán nội bộ về ngguyên
tắc không bị giao những nhiệm vụ không thuộc nhiệm vụ của kiểm toán nội
bộ. Trong những trờng hợp cụ thể có lý do chính đáng, một số cán bộ với
kiến thức chuyên sâu của mình có thể làm kiểm toán nội bộ.
Thông tin đầy đủ: Quyền đợc thong tin đầy đủ và không hạn chế liên
quan đến mọi mặt:nghĩa vụ thông tin bổ xung của tất cả các đơn vị đối với
Kiểm toán nội bộ một khi phát hiện ra những thiếu sót nghiêm trọng hoặc để
xẩy ra những thiệt hại đáng kể trong đơn vị của mình hoặc khi có sự nghi ngờ
về điều đó.
Trình độ của cán bộ: việc bố trí nhân sự về số lợng và chuyên môn
(luôn có kiến thức mới nhất) phải đảm bảo phù hợp với các nhiệm vụ của
kiểm toán nội bộ. Các cán bộ của kiểm toán nội bộ cần phải có những kiến
thức chuyên sâu về kiểm toán cũng nh những kiến thức tổng quát về lĩnh vực
dợc kiểm toán.
4.4. Việc thực hiện Kiểm toán nội bộ.
Lập kế hoạch kiểm toán năm toàn diện và định hớng vào rủi ro.
Kiểm toán đột xuất đợc phép tiến hành bất cứ lúc nào (khi những
thiếu sót đã rõ ràng, khi co nhu cầu thông tin nhất định).
4.5. Quy mô của trách nhiệm kiểm toán
Định hớng vào rủi ro đối với tất cả các quy trình.
Loại hình, quy mô, tần suất và phơng pháp kiểm toán phải đảm bảo
sao cho các kết quả kiểm toán phải đa ra đợc những thông tin rõ ràng về mức
độ tuân thủ và tính hợp lý trong nội bộ từng lĩnh vực kiểm toán.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
4.6. Hồ sơ công tác.
Ghi lại thành hồ sơ các công việc đã thực hiện cũng nh những thiếu
sót dợc phát hiện và các kết luận.
Dễ hiểu đối với ngời thứ ba.
4.7. Nghĩa vụ báo cáo.
Nhanh bằng văn bản.
ý kiến của bộ phận đợc kiểm toán đối với những thiếu sót đợc phát
hiện và kiến nghị.
Báo cáo phải trình bày về nội dung kiểm toán.
Đánh giá kết quả, kiến nghị sửa đổi cho hợp lý.
Báo cáo chung hàng năm gửi tới các thàh viên của Ban lãnh đạo.
4.8. Xử lý các thiếu sót đợc phát hiện.
Giám sát việc khắc phục ngay các thiếu sót và việc thực hiện các kiến
nghị ở hình thức thích hợp (kiểm toán việc thực hiện-follow up)
Nếu các thiếu sót không đợc khắc phục trong thời hạn thích hợp phải
báo cáo bằng văn bản cho ban lãnh đạo.
II. Hệ thống Kiểm toán nội bộ của các Tổ chức tín
dụng.
1. Khái niệm hệ thống Kiểm toán nội bộ trong các Tổ chức tín dụng.
Theo quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ
trong các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam (QĐ số 03/1997/QĐ-
NHNN3 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nớc ngày 03/01/1998):
Kiểm tra, kiểm toán nội bộ (gọi chung là kiểm tra nội bộ trong các tổ
chức tín dụng là việc tổ chức tín dụng thực hiện các phơng pháp giám sát,
kiểm tra và kiểm toán nội bộ nhằm bảo đảm thực hiện đúng các quy định
pháp luật, các quy chế quản lý của Ngành và quy định nội bộ của tổ chức tín
dụng, hạn chế rủi ro trong hoạt động và bảo vệ an toàn tài sản, bảo đảm tính
toàn diện, và tin cậy của số liệu hạch toán.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
2. Cơ sở.
Mỗi một tổ chức tín dụng phải có một đơn vị kiểm toán nội bộ đủ khả
năng hoạt động; điều này cũng áp dụng đối với các doanh nghiệp do các tổ
chức tín dụng diều hành với t cách là đơn vị phụ thuộc về mặt pháp lý. Các tổ
chức tín dụng phải có một cơ cấu tổ chức kinh doanh nghiêm túc đúng đắn
và một quy trình kiểm tra nội bộ thoả đáng. Bên cạnh cơ chế kiểm tra nội bộ
thì kiểm toán nội bộ cũng là thành phần của quy trình kiểm tra nội bộ này
(cơ chế giám sát nội bộ).
Cơ chế kiểm tra nội bộ bao gồm tất cả các hình thức giám sát đợc cài
đặt trực tiếp hay gián tiếp vào các quy trình công tác cần đợc giám sát (sự
giám sát gắn liền với quá trình). Những biện pháp giám sát này đợc thực hiện
bởi các cá nhân hay đơn vị tham gia trong mỗi quy trình công tác đó và hộ
thờng cũng là những ngời phải chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của
quy trình cần giám sát cũng nh về kết quả giám sát.
Bộ phận này là một đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp với nhiệm vụ thực
hiện giám sát theo uỷ quyền của Ban giám đốc tất cả các quy trình hoạt động
và kinh doanh trong nội bộ tổ chức tín dụng, giám sát việc quản lý và điều
tiết rủi ro cũng nh cơ chế kiểm tra nội bộ. Kiểm toán nội bộ chỉ có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ này nếu nh họ hoạt động độc lập với các lĩnh vực và quy
trình công tác đợc kiểm toán (sự giám sát độc lập với quá trình). Vì vậy công
việc kiểm toán của kiểm toán nội bộ đợc thực hiện bởi những ngời tham gia
vào các quá trình kinh doanh của tổ chức tín dụng và không chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động của quy trình đợc giám sát.
3. Yêu cầu về việc xây dựng hệ thống Kiểm toán nội bộ của các tổ
chức tín dụng.
3.1. Trách nhiệm của Ban giám đốc.
Kiểm toán nội bộ là một công cụ của toàn thể Ban giám đốc và chịu sự
chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc cũng nh có trách nhiệm báo cáo trực tiếp
cho Ban giám đốc, cụ thể là Giám đốc nếu có thể đợc.
Việc thiết lập một đơn vị Kiểm toán nội bộ và đảm bảo rằng đơn vị
này có đủ khả năng hoạt động là trách nhiệm của toàn thể Ban giám đốc và
không thể giao phó cho ngời khác. Điều này vẫn có hiệu lực ngay cả khi mỗi
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
thành viên trong Ban giám đốc chỉ phụ trách một số lĩnh vực hoạt động nhất
định trrong nội bộ tổ chức tín dụng.
Tiền đề quan trọng cho khả năng hoạt động của kiểm toán nội bộ là một
nội quy lập thành văn bản áp dụng cho toàn bộ doanh nghiệp. Bản nội quy
này đợc soạn thảo với trách nhiệm của ban giám đốc, đợc Ban giám đốc
chuẩn y và ban hành cũng nh về sự phân cấp thẩm quyền. Nội quy này phải
giúp cho kiểm toán nội bộ có thể theo đó tiến hành kiểm toán mà không cần
một cơ sở gì khác.
Ngoài ra, Ban giám đốc có trách nhiệm ban hành bằng văn bản các điều
kiện khung cho kiểm toán nội bộ, trong đó đặc biệt quy định về mục tiêu,
nhiệm vụ, trách nhiệm, vị thế về mặt tổ chức, quyền hạn cũng nh về nghĩa vụ
báo cáo của nhhững ngời làm công tác kiểm toán nội bộ theo các nguyên tắc
cơ bản đối với công việc kiểm toán nội bộ. Các điều kiện khung phải đợc
kiểm tra lại theo định kỳ và nếu cần thì phải đợc điều chỉnh lại cho phù hợp.
Tối thiểu mỗi năm một lần, Ban giám đốc phải thông báo bằng văn bản
chô Hội đồng quản trị biết về các kết luận quan trọng của kiểm toán nội bộ.
Trong đó đặc biệt phải nêu rỗ những sai phạm nghiêm trọng đã đợc phát
hiện, những biện pháp đã đa ra nhằm khắc phục những sai phạm này cũng
nh thực tế triển khai thực hiện các biện pháp đó. Đối với những sai phạm đặc
biệt nghiêm trọng thì phải thông báo ngay cho Hội đồng quản trị biết.
3.2. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán nội bộ phải thực hiện kiểm toán đối với tất cả các quy trình
hoạt động và kinh doanh của tổ chức tín dụng tuỳ theo quy mô và mức độ rủi
ro trong công việc của doanh nghiệp hay giao dịch kinh doanh.
Kiểm toán nội bộ đặc biệt phải kiểm toán và đánh giá về khả năng hoạt
động, tính hiệu quả, tính kinh tế và sự thoả đáng của cơ chế kiểm tra nội bộ,
kiểm toán và đánh giá việc áp dụng, khả năng hoạt động, tính hiệu quả và sự
thoả đáng của các cơ quản lý và điều hành rủi ro, của chế độ thông tin báo
cáo, của hệ thống thông tin và của chế độ tài chính kế toán, kiểm toán và
đánh giá việc tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy định về pháp lý
thanh tra hiện hành cũng nh các quy định khác, việc chấp hành các quy chế,
chế độ và quy tắc của doanh nghiệp cũng nh tính nghiêm túc đúng đắn của
tất cả các quy trình hoạt động kinh doanh và các quy định và biện pháp nhằm
bảo vệ tài sản của doanh nghiệp.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Nguyên tắc giám sát độc lập với quá trình không loại trừ khả năng kiểm
toán nội bộ, trong khuôn khổ các quy định đợc cụ thể hoá trong từng trờng
hợp, cũng có thể thực hiện nhiệm vụ gắn liền với quá trình thực hiện dự án.
Khi đó, kiểm toán nội bộ phải đảm bảo rằng tính độc lập của họ vẫn đợc giữ
nguyên và không xảy ra bất kỳ một sự xung đột quyền lợi nào.
Kiểm toán nội bộ cũng thực hiện các cuộc kiểm toán đặc biệt.
Theo quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm toán nội bộ trong các
TCTD có 11 nhiệm vụ, cụ thể:
Dự thảo để Tổng giám đốc (giám đốc) trình HĐQT, ban hành các ph-
ơng thức, nội dung và quy trình nghiệp vụ trông kiểm tra, kiểm toán noọi bộ
tổ chức tín dụng.
Xây dựng và trình Tổng giám đốc (giám đốc) duyệt và triển khai thực
hiện kế hoạch định kỳ hoặc đột xuất về kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
Trực tiếp hoặc phối hợp với Ban kiểm soát tiến hành kiểm tra công
tác quản lý và điều hành theo đúng quy định của pháp luật về hoạt động ngân
hàng và quy định nôi bộ của các tổ chức tín dụng.
Kiểm tra việc chấp hành quy trình hoạt động kinh doanh theo quy
định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và quy định nội bộ của tổ chức tín
dụng và các đơn vị thành viên.
Giám sát việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của NHNN về
bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Đánh giá mức độ đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng và kiến nghị các bbbiện pháp nâng cao khả năng bảo đảm an toàn trong
hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
Thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ.
Báo cáo Tổng giám đốc (giám đốc), Ban kiểm soát kết quả kiẻm tra
định kỳ hoặc đột xuất và nêu những kiến nghị khắc phục khuyết điểm, tồn
tại.
Trong phạm vi chức năng và quyền hạn theo quy định của pháp luật.
Xem xét giải quyết hoặc trình Tổng giám đốc (giám đốc) giaỉ quyết các đơn
th khiếu nại, tố cáo có liên quan đến tổ chức tín dụng, hoặc kiểm tra công tác
xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các đơn vị thuộc tổ chức tín dụng. Đối
với tổ chức tín dụng thành lập thờng trực chống tham nhũng do bộ phận này
thực hiện.
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
Rà soát hệ thống các quy định an toàn trong kinh doanh, phát hiện
các cơ sở, bất hợp lý để kiến nghị bổ sung, sửa đổi.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc (giám đốc) giao.
3.3. Các nguyên tắc cơ bản đối với Kiểm toán nội bộ.
Công tác kiểm toán nội bộ phải đợc thực hiện theo các nguyên tắc cơ
bản sau:
*Tính độc lập :
Ngoài quyền chỉ đạo của Ban giám đốc về việc tổ chức các cuộc kiểm
toán bổ sung, thì Kiểm toán nội bộ phải thực hiện nhiệm vụ của mình một
cách tự chủ và độc lập. Đặc biệt cần đảm bảo rằng Kiểm toán nội bộ không
chịu bất cứ một sự chỉ đạo rong việc lập báo cáo kiểm toán và đánh giá các
kết quả kiểm toán.
*Sự phân tách chức năng:
Về nguyên tắc, không đợc phép giao cho các nhân viên làm việc tại
kiểm toán nội bộ thực hiện những nhiệm vụ không nằm trong phạm trù kiểm
toán. Tuyệt đối họ không đợc phép đảm nhận những nhiệm vụ không tơng
hợp với công tác kiểm toán. Về nguyên tắc, cũng không nên giao cho những
nhân viên làm việc tại các phòng ban khác của tổ chức tín dụng đảm nhận
các công việc kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên điều đó không loại trừ khả năng,
trong những trờng hợp cụ thể có lý do chính đáng, cũng có những ngời khác
tạm thời làm việc cho kiểm toán nội bộ vì họ có những kiến thức chuyên môn
đặc biệt. Chừng nào tính độc lập của kiểm toán nội bộ đợc đảm bảo thì họ có
thể trong khuôn khổ công việc của mình thực hiện công tác t vấn cho Ban
giám đốc hoặc cho các đơn vị tổ chức khác trong tổ chức tín dụng.
*Thông tin đầy đủ:
Để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, kiểm toán nội bộ có quyền đợc
nhận thông tin đầy đủ và không hạn chế. Nh vậy, kiểm toán nội bộ phải đợc
trả lời ngay về các thông tin mà họ yêu cầu, đợc cung cấp ngay tất cả mọi hồ
sơ tài liệu cần thiết và đợc xem tất cả các quy trình hoạt động và kinh doanh
trong tổ chức tín dụng. Các chỉ thị và nghị quyết của ban giám đốc phải đợc
thông báo cho Kiểm toán nội bộ biết, nếu nh chúng có thể có tầm quan trọng
trực tiếp hay gián tiếp đối với Kiểm toán nội bộ. Ngoài ra, tất cả các đơn vị tổ
chức đều có trách nhiệm cung cấp những thông tin cho kiểm toán nội bộ, nếu
nh trong lĩnh vực hoạt động của mình thấy có những sai phạm nghiêm trọng
Sinh viên Chu Thị Thu Nga Hớng dẫn ThS Nguyễn Hồng Thuý
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét