Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

quản lí tài chính tại các trường đại học công lập Việt Nam

- 5 -

Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến hoạt động
giáo dục đào tạo, công tác quản lý tài chính và cơ chế, chính sách tài chính tác
động đến hoạt động của các trường đại học công lập ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
− Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lòch sử, phương pháp mô tả, phân tích thống kê, tổng hợp, so sánh, dự
báo … kết hợp sử dụng kiến thức tổng hợp các môn học thuộc chuyên ngành
kinh tế.
− Luận văn sử dụng các tài liệu là các sách giáo khoa về quản lý tài chính, các
qui đònh pháp luật về chế độ tài chính trong các cơ sở giáo dục – đào tạo, các
số liệu thống kê của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Vụ Kế hoạch – Tài chính, Viện
nghiên cứu phát triển giáo dục, các trang web, các báo và tạp chí liên quan ….
5. Kết cấu luận văn:
Kết cấu chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý tài chính tại các trường
đại học công lập Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng quản lý tài chính tại các trường đại học công lập Việt
Nam thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính tại các trường đại học công
lập Việt Nam đến năm 2010.








- 6 -

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP VIỆT NAM

I. KHÁI QUÁT VỀ CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP VIỆT NAM
1. Khái quát về sự phát triển của các trường Đại học công lập Việt Nam
Giáo dục đại học Việt Nam có lòch sử hình thành và phát triển lâu đời. Có
thể chia làm năm giai đoạn chính sau:
 Giáo dục đại học Việt Nam dưới chế độ phong kiến (1075 – 1919)
Nền giáo dục phong kiến ở nước ta chỉ thực sự hình thành từ triều Lý
(1009-1225), nhà nước bắt đầu chăm lo tổ chức nền giáo dục. Các trường công
được tổ chức ở Kinh đô, tỉnh, phủ, huyện. Trường tư có thể mở ở nhà dân, xóm,
làng, thôn quê. Trong 845 năm (1075-1919) đã tổ chức 187 khoa thi hội - đình
(cử nhân, tiến só), đỗ 2989 tiến só.
 Giáo dục đại học Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1919 - 1945)
Thay thế nền giáo dục phong kiến, một hệ thống giáo dục tiến bộ hơn,
được xây dựng phỏng theo hệ thống giáo dục ở Pháp, tuy yếu ớt nhưng đã được
hình thành ở Việt Nam thời Pháp thuộc. Trong vòng 27 năm đã chuyển dần các
trường trung học chuyên nghiệp ở Hà Nội thành cao đẳng hoặc đại học và tập
hợp lại thành Viện Đại học Đông Dương với gần 600 sinh viên.
 Giáo dục đại học Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945 (1945 -
1954)
- 7 -

Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Các trường đại học và cao đẳng ở Hà
Nội đều lên Việt Bắc. Có sự sắp xếp lại để hình thành 4 trường đại học: 2 trường
Sư phạm cao cấp, trường Khoa học cơ bản, trường ĐH Y. Năm 1950, tiến hành
cuộc cải cách giáo dục lần 1.
Ở vùng bò tạm chiếm, các trường ĐH hợp lại thành Viện Đại học Hà Nội, do
người Pháp quản lý. Viện có hai trung tâm, một tại Hà Nội và một tại Sài Gòn.
 Giáo dục đại học Việt Nam trong thời kỳ xây dựng chủ nghóa xã hội ở
miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam (1954 - 1975)
Tháng 10/1954, Thủ đô Hà Nội được giải phóng, giáo dục đại học
(GDĐH) chuyển sang thời kỳ mới. Năm 1958 cuộc cải cách giáo dục lần 2 được
tiến hành ở miền Bắc nhằm xây dựng nhà trường xã hội chủ nghóa. Mạng lưới
các trường đại học được mở rộng hơn. Tính đến năm học 1974-1975, ở miền Bắc
đã có 41 cơ sở đào tạo đại học với 100 ngành đào tạo, 55.700 sinh viên và 8.658
giáo viên. Hệ thống GDĐH được tổ chức theo mô hình của GDĐH Liên Xô (cũ).
Tại miền Nam, hệ thống GDĐH được tổ chức thành Viện đại học theo mô
hình đại học của Pháp, Mỹ. Có 4 viện đại học công với gần 130.000 sinh viên.
 Giáo dục đại học Việt Nam trong thời kỳ xây dựng chủ nghóa xã hội trên
cả nước (sau năm 1975). Thời kỳ này có thể chia làm hai giai đoạn: trước
đổi mới (1975 – 1986) và đổi mới (1986 đến nay)
¾ Giai đoạn trước đổi mới (1975 -1986)
Đây là giai đoạn tiếp quản, sắp xếp lại các trường đại học phía Nam theo
mô hình các trường đại học của miền Bắc, hình thành một mạng lưới đào tạo đại
học thống nhất trong cả nước. Trong giai đoạn này, các trường đại học bắt đầu
đào tạo sau đại học.
- 8 -

Những bất hợp lý trong đào tạo đại học bắt đầu bộc lộ, đó là sự chia cắt,
manh mún và kém hiệu quả. Một số biện pháp tổ chức sắp xếp lại đã hình thành
nhưng mới dừng lại ở mức độ chủ trương. Cách quản lý theo kiểu kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp không còn phù hợp với thời bình và trở thành một lực cản to
lớn làm triệt tiêu động lực phát triển.
¾ Giai đoạn đổi mới (1986 đến nay)
Sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986, những thắng lợi trong
việc chuyển sang nền kinh tế thò trường theo đònh hướng xã hội chủ nghóa đã dẫn
đến sự tăng trưởng mạnh trong qui mô đào tạo. Từ năm 1995 đến năm 2004 số
lượng sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng tăng lên gấp 4 lần so với giai
đoạn năm 1975-1986. Quá trình sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở đào tạo đã được
thực hiện nhằm khắc phục sự manh mún và nâng cao hiệu quả đào tạo. Bên cạnh
các cơ sở đào tạo công lập, mạng lưới các trường ngoài công lập cũng đã hình
thành và phát triển. Năm 1998 Luật giáo dục ra đời đã tạo lập một khung pháp
lý cho việc phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo của Việt Nam.
Mạng lưới đại học ở Việt Nam hiện nay có thể được phân loại: theo vùng,
lãnh thổ (gồm viện đại học, đại học quốc gia, đại học khu vực, đại học cộng
đồng, đại học Bộ, ngành); theo lónh vực đào tạo (đại học đa ngành, đơn ngành);
theo sở hữu (đại học công lập, dân lập, bán công, phân hiệu đại học quốc tế hay
hỗn hợp); theo loại hình đào tạo (đại học truyền thống, đại học mở).
Theo số liệu thống kê giáo dục của Vụ Kế hoạch Tài chính (năm 2004),
tính đến nay thì cả nước có khoảng 222 trường (không kể trường thuộc khối An
ninh, quốc phòng), với 1.131.030 sinh viên. Nếu phân chia theo loại hình thì có
63 trường đại học công lập, với 993.908 sinh viên.
- 9 -

Kinh phí hoạt động của các cơ sở đào tạo dựa vào các nguồn ngân sách cấp,
nguồn thu học phí, lệ phí, tài trợ, các nguồn thu từ các dòch vụ liên quan đến đào
tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ … Riêng các cơ sở đào tạo
ngoài công lập thì không có phần kinh phí ngân sách cấp. Tuy nhiên mục đích
hoạt động của hai hệ thống giáo dục trên đều phục vụ cho cộng đồng xã hội.
2. Khái niệm về đơn vò dự toán
Đơn vò sự nghiệp xét về phương diện tài chính còn gọi là đơn vò dự toán –
tên gọi chung cho các cơ quan, đơn vò … hoạt động bằng nguồn kinh phí do NSNN
cấp và các nguồn kinh phí khác thu từ cung cấp các dòch vụ cho xã hội. Các đơn
vò dự toán chia làm 3 cấp:
Đơn vò dự toán cấp 1: quan hệ trực tiếp với cơ quan tài chính ở cấp Bộ
hoặc Sở.
Đơn vò dự toán cấp 2: quan hệ tài chính với đơn vò dự toán cấp 1.
Đơn vò dự toán cấp 3: quan hệ tài chính với đơn vò dự toán cấp 2 hoặc cấp
1 trực thuộc.
Các trường đại học thường là đơn vò dự toán cấp 2 và đơn vò dự toán cấp trên của
trường là đơn vò dự toán cấp 1 (là Bộ Giáo dục và Đào tạo hoặc ĐH Quốc gia).
Và đơn vò cấp dưới của trường làm nhiệm vụ dự toán cấp 3 (các Trung tâm,
Viện, Trường trung học … )
Công tác quản lý tại các đơn vò dự toán phân theo các cấp quản lý, gồm: đơn vò
dự toán cấp chủ quản và đơn vò dự toán cấp cơ sở.
Đơn vò dự toán cấp chủ quản: là đơn vò dự toán tiếp nhận và phân bổ kinh
phí hoạt động cho các đơn vò cấp dưới, giám đốc việc cấp dưới chấp hành dự
- 10 -

toán cấp 1 và các đơn vò dự toán cấp 2 thực hiện chức năng của đơn vò cấp trung
gian (các trường đại học).
Đơn vò dự toán cấp cơ sở: là đơn vò trực tiếp thu, chi NSNN. Bao gồm đơn
vò dự toán cấp 3 và các đơn vò dự toán cấp 2 không có chức năng của đơn vò cấp
trung gian.
3. Đặc điểm hoạt động của các trường ĐH công lập Việt Nam
3.1 Các trường ĐH công lập là các đơn vò sự nghiệp có thu
Đơn vò sự nghiệp có thu là đơn vò sự nghiệp hoạt động do cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước quyết đònh thành lập. Có hai loại đơn vò sự nghiệp có thu:
đơn vò sự nghiệp có thu tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên (gọi
tắt là đơn vò sự nghiệp tự bảo đảm chi phí) và đơn vò sự nghiệp có thu tự bảo đảm
một phần chi phí hoạt động thường xuyên (gọi tắt là đơn vò sự nghiệp tự bảo đảm
một phần chi phí). Đơn vò sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí là đơn vò có
nguồn thu chưa trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên.
Trường đại học công lập do Nhà nước đầu tư xây dựng, cung cấp trang
thiết bò dạy học, bố trí cán bộ, công chức quản lý và đội ngũ nhà giáo giảng dạy
…. và thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình,
nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, qui chế thi cử và hệ thống văn
bằng. Nhà nước quản lý nguồn đầu tư cho giáo dục. Kinh phí cho các hoạt động
thường xuyên của trường đại học công lập chủ yếu do ngân sách nhà nước cấp,
bên cạnh đó, trường có thêm kinh phí từ các nguồn thu khác được giữ lại cho
trường theo qui đònh của Nhà nước. Các trường đại học công lập là các đơn vò sự
nghiệp có thu tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên.

- 11 -

3.2 Hoạt động của các trường ĐH công lập nhằm đào tạo con người
Đặc điểm hoạt động của các trường đại học công lập không nhằm vào lợi
nhuận mà hướng về phục vụ lợi ích cộng đồng và xã hội. Hoạt động giáo dục –
đào tạo nhằm mục đích đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghóa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất
và năng lực, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhà trường của các cơ quan hành chính nhà nước, của tổ chức chính trò, tổ
chức chính trò – xã hội có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho
đất nước. Nhà trường của lực lượng vũ trang nhân dân có nhiệm vụ đào tạo, bồi
dưỡng só quan, hạ só quan, quân dân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng;
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý nhà nước về nhiệm vụ và kiến thức
quốc phòng, an ninh.
3.3 Giáo dục – đào tạo theo nguyên tắc lý luận gắn với thực tiễn
Hoạt động giáo dục – đào tạo được thực hiện theo nguyên tắc học đi đôi
với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn,
giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
4. Cơ chế hoạt động
Các trường đại học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành
lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục.
Chòu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý giáo dục theo sự phân công, phân
cấp của Chính phủ. Nhà nước tạo điều kiện để trường công lập giữ vai trò nòng
cốt trong hệ thống giáo dục quốc dân.
- 12 -

Các trường đại học công lập do Nhà nước thành lập, bổ nhiệm cán bộ
quản lý và giao chỉ tiêu biên chế; Nhà nước quản lý, đầu tư về cơ sở vật chất,
cấp kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên.
Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học công lập gồm các qui
đònh bổ sung và cụ thể hoá “Điều lệ trường đại học” để áp dụng cho một hoặc
một số loại hình trường hoặc một trường. Điều lệ trường đại học là văn bản quy
phạm pháp luật qui đònh nhiệm vụ và quyền hạn của các trường; tổ chức các
hoạt động giáo dục trong nhà trường; nhiệm vụ quyền hạn của nhà giáo; nhiệm
vụ và quyền hạn của người học; tổ chức và quản lý nhà trường; cơ sở vật chất và
thiết bò nhà trường. Điều lệ trường đại học do Thủ tướng Chính phủ quyết đònh
ban hành.
Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo
đảm tỷ lệ ngân sách nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển
của sự nghiệp giáo dục. Trên cơ sở dự toán ngân sách nhà nước cho năm tài
chính được Quốc hội phê chuẩn, Bộ Tài chính phân bổ ngân sách nhà nước chi
cho giáo dục theo nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ, căn cứ vào qui mô
giáo dục, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của từng vùng, thể hiện được
chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội
đặc biệt khó khăn. Cơ quan tài chính cấp phát kinh phí cho các trường đầy đủ,
kòp thời, phù hợp với tiến độ của năm học. Cơ quan quản lý giáo dục sẽ quản lý,
sử dụng có hiệu quả phần ngân sách nhà nước được giao và các nguồn thu khác
theo qui đònh của pháp luật.
Các trường đại học công lập được quyền tự chủ và tự chòu trách nhiệm
trong các công tác: xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy, học
tập đối với các ngành nghề được phép đào tạo; tổ chức tuyển sinh theo chỉ tiêu
- 13 -

của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tổ chức quá trình đào tạo, công nhận tốt nghiệp và
cấp văn bằng theo thẩm quyền; tổ chức bộ máy nhà trường; huy động, quản lý,
sử dụng các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục; hợp tác với các tổ
chức kinh tế, giáo dục, văn hóa, thể dục, thể thoa, y tế, nghiên cứu khoa học
trong nước và nước ngoài theo qui đònh của Chính phủ.
II. TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC CÔNG LẬP VIỆT NAM
1. Khái niệm về tài chính các trường Đại học công lập Việt Nam
Tài chính có thể được xem như là một khoa học và nghệ thuật về quản lý
tiền. Tài chính có liên quan đến qui trình, thể chế, tình hình thò trường và các
công cụ chuyển đổi tiền giữa các cá nhân, doanh nghiệp và Chính phủ. Mặc dù
chỉ là một nhánh riêng biệt trong quan hệ phân phối xã hội, nhưng tài chính có
tác động mạnh và có các mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế xã hội. Những
hiểu biết về tài chính sẽ giúp cho nhà quản lý ra quyết đònh tài chính đúng đắn,
đề ra được các thủ tục, qui trình và giải quyết vấn đề tài chính một cách hiệu
quả.
Tài chính trong các trường Đại học phản ánh các khoản thu, chi bằng tiền
của các quỹ tiền tệ trong các trường Đại học. Thể hiện dưới hình thái vật chất
của các quỹ bằng tiền này như: chất xám nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, máy
móc thiết bò, vốn bằng tiền khác …
Về hình thức nó phản ánh sự vận động và chuyển hóa của các nguồn lực
tài chính trong quá trình sử dụng các quỹ bằng tiền.
Về bản chất, tài chính các trường đại học công lập Việt Nam là những mối
quan hệ tài chính biểu hiện dưới hình thức giá trò phát sinh trong quá trình hình
- 14 -

thành và sử dụng các quỹ bằng tiền của các trường đại học nhằm phục vụ sự
nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Các quan hệ tài chính đó là:
 Quan hệ tài chính giữa Trường với Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước cấp kinh phí chi thường xuyên, chương trình mục
tiêu, khoa học công nghệ … cho các trường. Các trường phải thực hiện nghóa vụ
tài chính đối với nhà nước: nộp thuế … (nếu có) theo luật đònh.
 Quan hệ tài chính giữa Trường với xã hội
Xét quan hệ tài chính giữa nhà trường với xã hội, mà cụ thể là người học,
được thể hiện thông qua các khoản tiền học phí, lệ phí tuyển sinh, lệ phí thi và
một số các loại phí, lệ phí khác để góp phần đảm bảo cho các hoạt động giáo
dục. Chính phủ có qui đònh khung học phí, cơ chế thu và sử dụng học phí đối với
tất cả các loại hình trường, cơ sở giáo dục khác theo nguyên tắc không bình
quân, thực hiện miễn giảm cho các đối tượng được hưởng chính sách xã hội và
người nghèo.
Trường còn cung cấp các dòch vụ tư vấn, chuyển giao kỹ thuật và công
nghệ, thực hiện các hợp đồng nghiên cứu khoa học với bên ngoài. Do vậy cũng
phát sinh các quan hệ tài chính hình thành nguồn thu tiền tệ cho các quỹ của
trường.
 Quan hệ tài chính trong nội bộ nhà Trường
Quan hệ tài chính trong nội bộ trường gồm các quan hệ kinh tế giữa các
khoa, phòng, ban chức năng và giữa các cán bộ công chức trong trường thông
qua quan hệ tạm ứng, thanh toán, phân phối thu nhập như: tiền giờ giảng, thù lao
nghiên cứu khoa học, tiền lương, thưởng …

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét