DẪN NHẬP
0.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vị từ (VT) – một từ loại được coi là có tính phổ quát – với vai trò là thành tố thiết yếu trong việc tạo
câu (đơn vị giao tiếp cơ bản của con người), trở thành một trong những đối tượng nhận được sự quan tâm
đặc biệt của các nhà ngôn ngữ học. Có thể nói, không có một công trình về ngữ pháp nào mà lại bỏ qua
việc giới thiệu, khảo sát VT. Tuy nhiên, VT và những phạm trù liên quan cũng nằm trong số những vấn đề
còn gây nhiều bất đồng trong giới nghiên cứu trước đây
cũng như hiện nay. Những công trình khảo sát về
VT cho thấy từ loại này đã được tiếp cận từ rất nhiều hướng, rất nhiều khía cạnh khác nhau. Mỗi hướng
tiếp cận cho ta những phát hiện khác nhau. Ngay trong một hướng tiếp cận, những đặc điểm, những khía
cạnh liên quan đến V
T cũng được nhìn nhận rất khác nhau giữa các tác giả.
Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường hướng tiếp cận
khác nhau đã bàn về ngữ pháp nói chung và VT nói riêng. Rất nhiều tác giả đã cố gắng xác định các tiêu
chí để nhận diện VT cũng như đề xuất các hướng miêu tả, phân loại VT. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có
tác giả nào đặt trọng tâm chú ý vào việc khảo sát phạm trù nội (NĐ)/ ngoại động (NgĐ) – một phạm trù
quan trọng, được coi là gắn bó mật thiết với VT. Nhìn chung các công trình nghiên cứu Việt ngữ chỉ điểm
qua về phạm trù NĐ/ NgĐ khi đề cập tới từ loại VT hoặc khi thảo luận về một số cấu trúc câu.
Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt và những vấn đề cơ
bản c
ó liên quan. Cụ thể, luận án sẽ khảo sát một cách hệ thống các biểu hiện, các đối lập của phạm trù
NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt; đồng thời đối chiếu với những vấn đề tương ứng trong tiếng Anh để tìm ra
những tương đồng, dị biệt cơ bản nhằm tìm thêm luận cứ cho việc biện giải phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng
Việt.
0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
0.2.
1. Trên thế giới, phạm trù NĐ/ NgĐ đã được chú ý từ lâu. Phạm trù này thường gắn với việc
phân loại động từ trong các công trình ngữ pháp cổ điển. Các tác giả thuộc trường phái ngữ pháp Hy
Lạp cổ đại (như Aristotle, Thrax, Dyscolus, v.v.), trường phái La Mã cổ đại (như Donatus, Priscian,
v.v.), ngữ pháp Ấn Độ cổ (như Panini, v.v.) không chỉ đề cập tới vấn đề phâ
n loại, tới việc xác định vị
thế động từ trong hệ thống từ loại mà còn bàn cả về vấn đề phân chia động từ thành nội động từ và
ngoại động từ (x. [83, tr.18-76]). Phạm trù NĐ/ NgĐ được các nhà ngữ pháp trung cổ và các nhà ngữ
pháp hiện đại không ngừng tìm hiểu. J. Vendryès đã phải nói rằng: “Sự phân biệt ấy (NĐ/ NgĐ) được
các nhà ngữ pháp luôn dùng đến; nó có vẻ tự nhiê
n đến nỗi người ta chẳng buồn định nghĩa nữa, người
ta bảo tự nó thế.” [dẫn theo 82, tr.95]. Nhìn chung trên thế giới, phạm trù NĐ/ NgĐ được hiểu rất khác
nhau.
0.2.1.1. Trước những năm 30 thế kỷ XX, các định nghĩa về phạm trù NĐ/ NgĐ thường dựa trên
tiêu chí nghĩa. J. Nesfield (1898) cho rằng: “một động từ là NgĐ khi mà hành động không dừng ở Tác
thể (agent), mà đi qua một cái gì khác” còn “một động từ là NĐ khi mà hành động dừng lại ở Tác thể
và không đi từ Tác thể tới bất cứ cái gì khác” [185, tr.64]. Với cách hiểu như vừa trình bày trên, phạm
trù này chỉ áp dụng cho một số động từ thuộc nhóm động từ hành động. Tuy nhiên trong thực tế nhiều
động từ [–hành động] có chủ thể không hề tác động đến sự vật khác
(như: know ‘biết’, see ‘nhìn’, love
‘yêu’, v.v), vẫn được coi là NgĐ [185, tr.64-65]. Vì thế, các nhà ngữ pháp bấy giờ đã phạm phải nhiều
mâu thuẫn khi đề cập đến phạm trù này.
0.2.1.2. Từ những năm 30 của thế kỷ XX, gắn với khuynh hướng ngữ pháp cấu trúc, NĐ/ NgĐ lại
được coi là phạm trù ngữ pháp thuần túy. Sau khi đã tách những động từ không có nghĩa từ vựng (động
từ nối và động từ tình thái), các nhà ngôn ngữ học chia động từ có ý nghĩa từ vựng thành hai loại: động
từ NgĐ và động từ NĐ. Các động từ được coi là NgĐ khi nó kết hợp với một bổ ngữ (B
N) trực tiếp,
các động từ còn lại là NĐ ([155, tr.305]; [192, tr.117]; [193, tr.5])
1
. Trong nỗ lực hình thức hoá, khách
quan hoá các tiêu chí nhận diện, các nhà ngữ pháp học thời kì này đã cố gắng xác lập những dấu hiệu
hình thức trong việc định nghĩa, cũng như phân loại, miêu tả động từ NĐ và NgĐ. Tuy nhiên, việc sử
dụng duy nhất tiêu chí hình thức ngữ pháp đã khiến cho việc phân loại, miêu tả gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt với các ngôn ngữ không biến hình (x. mục 1.5).
0.2.1.3. Trong những thập niê
n cuối thế kỷ XX, các nhà ngôn ngữ học tiếp tục dành sự quan tâm
đáng kể đến phạm trù NĐ/ NgĐ.
Các nhà ngôn ngữ học thuộc trường phái ngữ pháp tạo sinh xác định NĐ/ NgĐ dựa trên cơ sở sự
chi phối trật tự và tầng bậc (order and hierarchical dominance) các thành tố. Theo đó, chủ ngữ là một ngữ
đoạn danh từ bị chi phối trực tiếp bởi câu còn BN trực tiếp là ngữ đoạn danh từ bị chi phối trực tiếp bởi
ngữ động từ. Câu NgĐ là kiểu câu có một chủ ngữ và một BN trực tiếp (x. [1
99, tr.11]). NĐ/ NgĐ được
xem như là một phạm trù gắn chặt với câu. Ngữ pháp tạo sinh cũng cho rằng mô hình câu NgĐ như đề
cập trên là mô hình cơ bản (cấu trúc sâu), ở các mô hình cú pháp khác (cấu trúc bề mặt) vai trò của các
thành tố có thể thay đổi. Trong một số ngôn ngữ, nhất là các ngôn ngữ có trật tự không phải là SVO và
các ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ tác cách (ergative), quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc không
nhất th
iết tuân theo kiểu chi phối như các nhà ngữ pháp tạo sinh đề xuất ở trên.
Nhiều nhà ngôn ngữ học đã có đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu phạm trù NĐ/ NgĐ từ
góc độ loại hình khi đi tìm sự đánh dấu cách trên các ngữ đoạn chức năng (chủ ngữ [NĐ, NgĐ], BN
trực tiếp) cũng như tìm hiểu sự phù ứng của VT với các thành phần chức năng đó. C
ông trình tập thể
quy mô về “Chủ ngữ và Chủ đề” (‘Subject and Topic’) do Ch. Li chủ biên (1976) có một số bài viết đề
1
Một số tác giả còn thêm tiêu chí khả năng biến đổi sang dạng bị động. Một VT NgĐ bao giờ cũng có thể tham gia vào cấu trúc bị
động [200, tr.8-15].
cập tới sự đánh dấu cách trên chủ ngữ, chủ đề cũng như sự phù ứng của động từ với các ngữ đoạn chức
năng trong các loại hình ngôn ngữ. Mặc dù không trực tiếp bàn về phạm trù NĐ/ NgĐ nhưng những
nhận xét về đặc tính, sự thể hiện các thành phần có liên quan đến động từ đã góp phần soi sáng, định
hướng ít nhiều cho việc tìm hiểu phạm trù
NĐ/ NgĐ nói riêng và VT nói chung. Sau đó, hàng loạt
công trình tương tự tiếp tục khảo sát một cách chi tiết những vấn đề liên quan đến phạm trù NĐ/ NgĐ.
Có thể nêu ra các bài viết của E. Moravcsik (1978) về sự đánh dấu cách trên ngữ đoạn làm BN trực
tiếp [181], về sự phù ứng của động từ [182], của T. Givón (1978) về tính [±xác định] của các thành
phần chức năng [151], v.v. Điều cần ghi nhận là những nghiên cứu của họ đã cho t
hấy tìm hiểu phạm
trù NĐ/ NgĐ cần phải chú ý tới cả đặc điểm ngữ nghĩa của các thành phần chức năng gắn với VT.
Một điểm mốc quan trọng trong việc nghiên cứu phạm trù NĐ/ NgĐ là công trình của P. Hopper
và S. Thompson đăng trên tạp chí “Language” (Ngôn ngữ) số 2 năm 1980. Trong bài viết này, các tác
giả đã đưa ra một chùm mười tiêu chí nhằm nhận diện phạm trù
NĐ/ NgĐ. Tùy theo mức độ thỏa mãn
các tiêu chí đã nêu, tư cách của VT cần xét sẽ được xác định. Phạm trù NĐ/ NgĐ được các tác giả xem
là gắn chặt với câu và nó bị chi phối đáng kể bởi các nhân tố hoàn cảnh sử dụng (những nhân tố thuộc
về dụng pháp).
Một số tác giả đã xem NĐ/ NgĐ không chỉ là phạm trù ngữ pháp mà còn là phạm trù ngữ nghĩa,
gắn với cấu trúc ngữ nghĩa của VT. Chẳng hạn, khi định nghĩa VT
NgĐ, T. Givón (1984) đã sử dụng
cả cơ sở cú pháp ([±BN trực tiếp]) và cơ sở ngữ nghĩa (số lượng và kiểu vai nghĩa của các tham tố).
Theo ông, “những VT có một chủ ngữ Tác thể (agent subject) và một BN trực tiếp Bị thể (patient
direct-object) là những VT NgĐ” [152, tr.91]. Việc kết hợp cả hai tiêu chí này đã tạo ra một cách hiểu
mới có giá trị giải thích và vận dụng rất hiệu quả. Và tiến xa hơn, tá
c giả đã đưa ra khái niệm NgĐ điển
hình (prototypical transitive verbs) và NgĐ kém điển hình (less prototypical transitive verbs) để phân
chia VT NgĐ. Bằng cách này, tác giả đã kế thừa được lối phân loại truyền thống (căn cứ vào nghĩa)
nhưng cũng không làm mất đi tính triệt để, khoa học trong quá trình nhận diện, phân loại VT.
Một hướng tiếp cận rất đáng
lưu ý liên quan tới phạm trù NĐ/ NgĐ là quan niệm của trường
phái Ngữ pháp Chức năng hệ thống mà người khởi xướng là M. Halliday. NgĐ/ chuyển tác
(transitivity) không được hiểu như là một phạm trù của động từ mà là một phạm trù thuộc về mệnh
đề/ cú (clause). Đó là một “hệ thống ngữ pháp nhằm phân thế giới khái niệm thành một tập hợp
các
kiểu quá trình (process types)” [29, tr.205]. Chuyển tác được hiểu là cách tổ chức các mô hình cú
pháp liên quan đến (i) lựa chọn một quá trình (một kiểu động từ); (ii) lựa chọn các diễn tố (kiểu và số
lượng các tham tố bắt buộc); (iii) lựa chọn các chu tố (kiểu và số lượng các tham tố tự do) [142,
tr.299]. Kết quả của việc lựa chọn trên là sự hình thành của một trong ba quá trình: quá trình vật
chất, quá trình tinh thần, quá trình quan hệ. Như vậy chuyển tác là kiểu mô hình cú pháp liên quan
chặt chẽ đến phương diện nghĩa (thể hiện thế giới kinh nghiệm bên ngoài). Cách hiểu chuyển tác như
trên có nhiều khác biệt so với cách hiểu thuật ngữ NgĐ (với tư cách là một phạm trù ngữ pháp của
VT) mà luận án đề cập tới vì thế thuật ngữ chuyển tác và nội hàm của nó chỉ được xem là một cơ sở
tham khảo thêm trong các phần sẽ trì
nh bày tiếp theo.
Y. Testelec (1998) khi bàn về các tiêu chí nhận diện phạm trù NĐ/ NgĐ, đã đưa ra nhận xét
chung về cách hiểu phạm trù này trong giới ngôn ngữ học đồng thời đề xuất một số tiêu chí nhận diện.
Theo tác giả, hiện có hai hướng phân loại ngữ pháp cơ bản: (i) dựa trên những đặc tính thuộc về hình
thức của từ, không dựa vào hoặc dựa rất ít vào ngữ nghĩa; (ii) dựa trên những đặc tính ngữ nghĩa kiểu
như động vật tính (ani
mateness). Tác giả cho rằng lối phân loại NĐ/ NgĐ giống với lối phân loại các
đơn vị từ vựng, là lối phân loại dựa vào tư cách cú pháp của chúng – một lối phân loại cho thấy có sự
giao thoa (overlap) ít nhiều giữa các ngôn ngữ. Cũng trong công trình này tác giả đã cho rằng theo
quan niệm truyền thống phổ biến nhất hiện nay thì “những động từ có diễn trị BN trực tiếp (direct
object vale
ncy) được gọi là những động từ NgĐ, những động từ không có diễn trị BN trực tiếp là động
từ NĐ”. Để tránh những vấn đề rắc rối về mặt lí thuyết cũng như trong miêu tả cụ thể liên quan đến
khái niệm BN trực tiếp, một số nhà loại hình học đã sử dụng các khái niệm phổ quát dựa trên cơ sở
ngữ nghĩa, theo đó “
một nhóm VT nhỏ, những VT hủy diệt và tạo tác (verbs of destruction and
creation), được coi là NgĐ ở dạng cơ bản có thể thấy trong tất cả các ngôn ngữ. Và, bất kì VT nào đòi
hỏi cấu trúc tương tự như các VT này đòi hỏi thì đều được gọi là NgĐ.” [210, tr. 29]. Đồng ý với quan
điểm cho rằng NĐ/ NgĐ có thể được xác định dựa trên cơ sở ngữ nghĩa (semantic base), tác giả đã đi
sâu bàn thảo về giá trị của hai tiêu chí có liên quan đến phạm trù
NĐ/ NgĐ, đó là tính “bị ảnh hưởng”
(affectedness) và tính “chủ ý” (control). Dựa trên các tiêu chí này, ông đã đưa ra một bảng phân loại
các VT gồm tám loại dựa trên hai tiêu chí trên [210, tr.37]. Lối phân loại dựa trên đặc điểm ngữ nghĩa
của các vai nghĩa mà tác giả đề nghị cũng còn nhiều điểm cần trao đổi.
0.2.2. Ở Việt Nam, thái độ của giới Việt ngữ học đối với phạm trù
NĐ/ NgĐ có thể chia thành hai
khuynh hướng chính sau.
0.2.2.1. Một số nhà Việt ngữ học phủ nhận sự tồn tại phạm trù NĐ/ NgĐ. Trong số này, có người
phủ nhận sự tồn tại từ loại trong tiếng Việt, do đó, NĐ/ NgĐ, vốn gắn với VT, cũng không được nhắc
tới. Quan niệm
này có thể tìm thấy trong các công trình của M. Grammont & Lê Quang Trinh (1911),
H. Maspéro (1912), Hồ Hữu Tường (1949), Nguyễn Hiến Lê (1952), v.v.
Nguyễn Hiến Lê sau khi phân tích một số ví dụ trong tiếng Việt cũng như so sánh đối chiếu với
các ngôn ngữ biến hình đã cho rằng tiếng Việt không có từ loại nhất định. Lí do ông đưa ra là các từ
của tiếng Việt có thể tham gia vào các vị trí cú pháp khác nhau mà không thay đổi hình thái: “[…] rất
nhiều tiếng đứng ở đây thuộc vào tự loại này, đứng chỗ khác lại thuộc vào tự loại khác mà không hề
thay đổi tự dạng. Ta có thể nói bất kì một danh từ, động từ, tĩnh từ nào cũng có thể biến loại được”, và
ông cho rằng sở dĩ “[…] từ trước đến nay có những tiếng chưa biến là chỉ vì chưa có cơ hội nào để
biến đó thôi.” [50, tr.28].
Một số nhà Việt ngữ học tuy c
hấp nhận có từ loại trong tiếng Việt nhưng không đề cập tới, hoặc
phủ nhận phạm trù NĐ/ NgĐ ([56], [57], [211]). Chẳng hạn, L. Thompson cho rằng: “sự lưỡng phân
quen thuộc các động từ tiếng Anh thành những động từ ‘cần BN’ và những động từ ‘không cần BN’ là
không tồn tại trong tiếng Việt.” [211, tr.220].
0.2.2.2. Phần lớn các nhà Việt ngữ học có đề cập tới phạm trù
NĐ/ NgĐ nhưng ở mức độ đậm
nhạt khác nhau và sử dụng những thuật ngữ khác nhau.
Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm dựa vào mối quan hệ của động từ với BN đứng sau
đã chia động tự (động từ) thành hai tiểu loại: động tự có túc từ và động tự không có túc từ. Theo tác
giả, có một số động từ cần phải dùng thêm những tiếng để “làm cho lọn nghĩa” (tức động tự có túc từ),
còn một số khác khi biểu diễn một cái thể hay một sự biến hiện tha
y đổi không cần túc từ” (tức động tự
không có túc từ) [43, tr.91]. Dù lấy tiêu chí nghĩa – trọn nghĩa hay không trọn nghĩa – nhưng cách gọi
có túc từ hay không có túc từ cho thấy các tác giả có chú ý tới mối quan hệ cú pháp của động từ khi
phân loại.
Trà Ngân Lê Ngọc Vượng cũng phân chia động từ theo hướng Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm
Duy Khiêm đã đề xuất. The
o ông, động từ có thể thuộc về hai loại tự động từ và thi động từ. Hai thuật
ngữ này cũng được định nghĩa dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa – cú pháp. Tự động từ là “một động từ chỉ
một hành động mà không cần có bổ túc cũng trọn nghĩa” còn thi động từ là “động từ chỉ một hành
động do chủ động làm ra mà không chịu lấy, nên phải có một bổ túc trực tiếp hay gián tiếp mới trọn
nghĩa”. Có lẽ ảnh hưởng của lối phân loại phương Tây mà ông tiếp tục chia thi động từ thành hai thể
thụ động và tha động. Tuy nhiên ông cũng thấy sự phân biệt này chỉ là tương đối và ông cũng đã đề
cập tới một số trường hợp chuyển loại [62, tr.88-
90].
Bùi Đức Tịnh, tác giả của “Văn phạm Việt Nam”, lấy tiêu chí phân loại là “dựa vào phương diện
ý nghĩa”. Từ đó ông chia động từ ra làm bốn loại: động từ viên ý, động từ khuyết ý, động từ thụ trạng,
trợ động từ. Ngoại trừ hai loại sau tương đương với động từ tình thái, động từ nối theo cách hiểu hiện
nay, hai loại đầu lần lượt là NĐ và NgĐ. Tác giả cho rằng động từ viên ý là những động từ “chỉ dùng
một m
ình với chủ ngữ cũng có thể làm nên một câu trọn nghĩa” [100, tr.179] tuy không đi với túc từ
nhưng chúng có thể đi với những bổ túc ngữ chỉ hoàn cảnh; trong khi đó động từ khuyết ý “[…] tự nó
không đầy đủ. Nó cần được một danh từ hay một đại từ bổ túc” (tr.180). Danh từ hay đại từ này là
những BN t
huộc động (tức BN trực tiếp) hay BN can động (tức BN gián tiếp) (tr.181).
Các (nhóm) tác giả trên sử dụng những thuật ngữ khác nhau và đưa ra những tiêu chí có vẻ trái
ngược nhau (thể hiện ở cách gọi tên: hoặc nghiêng về mặt nghĩa, hoặc nghiêng về mặt hình thức) nhưng
thực ra đều có nét chung là đề cập tới cả hai tiêu chí khi phân loại. Sự dị biệt lớn tập trung ở việc Bùi
Đức Tịnh chia động từ thành bốn tiểu loại trong khi Trà Ngân và nhóm Trần Trọng Kim triệt để lưỡng
phân.
Học giả Phan Khôi lại chia động từ tiếng Việt ra làm 3 loại: NĐ, NgĐ và chuẩn động từ. Bàn về
phương diện ý nghĩa của NĐ, ông cho rằng: “sự tác động từ trong phát ra là đủ” [44, tr.197]; trong khi đó
NgĐ thì “sự tác động có chạm đến vật khác ở ngoài” (tr.197-198). Về quan hệ cú pháp, tiêu chí phân biệt
NĐ với NgĐ mà ông đưa ra là sự có mặt hay vắng mặt của tân ngữ. Ông chú ý phân biệt tân ngữ (object)
với BN (com
plement) mà tiêu chí phân biệt cũng là nghĩa: “tân là khách, dịch chữ object của Ăng lê, đối
với chủ ngữ là subject. Là khách đối với chủ, cho nên tân ngữ và chủ ngữ bao giờ cũng không đồng là
một vật” (tr.198). Theo ông chỉ động từ nào đi với tân ngữ mới là NgĐ (ngược lại, những động từ đi với
bổ túc ngữ – trong đó có tính từ – là chuẩn động từ). Cho dù cách h
iểu về tính NgĐ ở phương diện nghĩa
còn máy móc (có sự lầm lẫn giữa NgĐ với tác động) và do vậy không có khả năng giải thích trong nhiều
trường hợp, nhưng cách hiểu các khái niệm như trên cũng có giá trị nhất định trong việc tiếp cận các vấn
đề liên quan đến phạm trù NĐ/ NgĐ.
Vào đầu những năm đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX, I.
Bưxtơrốp – một nhà Đông phương học
người Nga, đã có một công trình bàn về một số kết cấu động từ trong tiếng Việt. Trong bài viết này, tác
giả đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc tìm hiểu động từ khi tham gia vào các cấu trúc khác nhau và
ông đã chú ý khu biệt hai kiểu ‘cấu trúc động từ quan trọng nhất’ là cấu trúc với động từ NgĐ và cấu
trúc với động từ NĐ. Ở bước thứ nhất (phâ
n biệt cấu trúc NĐ với NgĐ) ông đã dựa vào đặc trưng hình
thức (hình thức của danh ngữ phía sau: có hoặc cho phép giới từ trước nó và không có hoặc không cho
phép giới từ trước nó). Ở bước thứ hai, ông đề nghị tiếp tục tiến hành phân loại các động từ NĐ và
NgĐ thành các tiểu loại nhỏ hơn dựa trên đặc trưng “có hoặc không có khả năng tham
gia vào cấu trúc
có động từ bị động” [9, tr.59-60]. Phương pháp nghiên cứu của ông tương tự với cách mà các nhà ngôn
ngữ học phương Tây áp dụng khi nghiên cứu các ngôn ngữ đơn lập, không biến hình. Có thể nói tác
giả chưa có đột phá gì mới trong cách hiểu về phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt.
Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê trong “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam” đã thể hiện một
cách nhìn khá mới mẻ về cách phân chia từ loại nói chung và VT nói riêng. Các tác giả dùng thuật ngữ
trạng từ để thay thế cho cả động từ, tính từ theo cách gọi truyền thống. Các trạng từ được các tác giả
chia thành trạng từ trọn nghĩa và trạng từ không trọn nghĩa [18, tr.220-221]. Ngoài tiêu chí nghĩa, các
tác giả cũng có dùng đến tiêu chí
kết hợp hay không kết hợp với khách thể (gồm khách thể chính – tức
BN trực tiếp và khách thể thứ – tức BN gián tiếp). Tuy nhiên ở tiêu chí này, các tác giả đã không chú ý
đầy đủ đến những dấu hiệu hình thức (chẳng hạn, các tác giả không bàn tới sự có mặt hay vắng mặt
của giới từ đứng trước BN) và điều này gây ra khó khăn trong việc nhận diện các loại trạng từ. Như
vậy, cái mới mẻ và cũng là đóng góp của các tác giả thể hiện ở chỗ họ thuộc vào số những người đầu
tiên đề cập tới tính NĐ và NgĐ của một đối tượng rộng (trạng từ) và đã đưa ra những nhận xét sâu sắc
về tính đa loại (hai cách dùng) của một số trạng từ (tr.221).
Bên cạnh những tác giả chú trọng sự đối lập NĐ – N
gĐ, nhiều tác giả khác lại chỉ coi NĐ, NgĐ
là hai trong số nhiều tiểu loại của VT (với nội hàm bị thu hẹp đáng kể), hoặc chỉ điểm
qua và xem
chúng như là kết quả của một cách chia ‘truyền thống’. Xu hướng này thể hiện phổ biến ở những công
trình ngữ pháp giai đoạn nửa cuối thế kỷ XX.
Triển khai sâu một hướng đã đề cập trước đó trong “Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt” (1963),
hơn mười năm sau (năm 1977), Nguyễn Kim Thản công bố chuyên luận “Động từ trong tiếng Việt”.
Trong công trình công phu về động từ nà
y, tác giả chỉ dành 6 trang để bàn về phạm trù NĐ/ NgĐ trong
phần lịch sử nghiên cứu. Mặc dù không phủ nhận tính ‘có lí do’ và sự ‘có lợi’ nhất định của lối phân
loại này nhưng tác giả đã thấy quá nhiều khó khăn, phức tạp. Ông viết: “[…] trong nội bộ của hai loại
ấy (NĐ và NgĐ) không phải là hoàn toàn đồng nhất về đặc điểm cú pháp, hơn nữa cách phân loại n
ày
gặp nhiều khó khăn, ranh giới giữa hai loại này không phải là hoàn toàn dứt khoát” [82, tr.94]. Trong
khi cố tránh những khó khăn này, ở phần phân loại động từ dựa vào “tính chất chi phối của động từ”
(có liên quan đến phạm trù đang xét), tác giả đã phạm phải một số sai lầm. Lấy tiêu chí tính chất chi
phối của động từ, tác giả đã chia động từ ra ba nhóm lớn gồm 12 tiểu loại (ba nhóm là: ngoại hướng,
trung tính, nội hướng). Ở đây thật rất khó để xác định NĐ và N
gĐ thuộc loại nào trong một bảng phân
loại tuy chi tiết nhưng lại chứa nhiều sự thiếu nhất quán, mâu thuẫn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào mặt ý
nghĩa, hay chỉ vào mặt hình thức hoặc kết hợp cả tiêu chí thì đều sẽ thấy danh sách NĐ và NgĐ cần
phải lấy từ những nhóm rất khác nha
u trong bảng phân loại của tác giả. Rõ ràng NgĐ không phải chỉ là
những động từ thuộc nhóm ngoại hướng; và NĐ không phải thuộc nhóm nội hướng và sự tồn tại của
nhóm trung tính ở đây rõ ràng là không hợp lí. Đi sâu vào các tiểu loại, rất nhiều động từ trong một
nhóm không có tiêu chí chung và cần phải chuyển nhóm (x. [72, tr.20-30]).
Nhìn nhận phạm trù NĐ/ NgĐ ở một hướng khác, Đỗ Hữu Châu trong một công trình bàn về các
hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ, đã xem những VT có hai cách dùng là một hiện tượng trung gian
tiêu biểu trong tiếng Việt. Ông nhận thấy ‘rất khó phân biệt’ giữa NĐ và NgĐ m
à nguyên nhân là “[…]
đặc trưng ngữ nghĩa của chúng chưa được phân tích đầy đủ và những trường hợp điển hình và trung gian
chưa được giải thích một cách thỏa đáng” [16, tr.29]. Trước hiện tượng phức tạp này, ông đề xuất một
hướng tiếp cận mới: “không căn cứ vào tiêu chuẩn thông thường ‘có hay không có BN đối tượng danh từ
trực tiếp (hoặc ở tân cách)’ mà trước hết căn cứ vào cấu trúc ngữ nghĩa của chúng để xử lí lại vấn đề
này” (tr.29). Theo hướng này ông cũng phân VT ra (dù không hiển ngôn) thành hai nhóm: (i) VT NgĐ
điển hình (từ của tác giả: “có ý nghĩa NgĐ chân chính”); và (ii) những VT NgĐ không điển hình. VT
NgĐ điển hình là những VT có hai diễn tố (tác giả dùng ‘đối’ hay ‘trị’) trong đó ‘thụ nhân’ (tức BN biến
đổi) “nhất thiết phải chịu một hậu quả nhất định nào đó sau khi nhận tá
c động từ chủ thể” (tr.29). Cách
hiểu này có nhiều điểm tương đồng với việc phân loại VT ở bậc hai (chia VT NĐ và NgĐ thành các tiểu
nhóm điển hình và kém điển hình) mà luận án sẽ trình bày trong mục 2.1.2.
Vũ Thế Thạch khi bàn về ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ tiếng Việt đã nhấn mạnh đến sự cần
thiết phâ
n biệt “NgĐ hình thức” với “NgĐ chức năng” – một sự phân biệt đã được nhà ngôn ngữ học
người Nga S. Kacnelson lưu ý từ lâu [76, tr.13]. Từ sự phân biệt bước đầu này, tác giả tập trung phân
loại tiếp các động từ tiếng Việt dựa trên cơ sở ngữ nghĩa của chúng (dựa trên các nghĩa vị của động từ).
Kết quả phân loại m
à ông đưa ra là ba loại động từ cơ bản: động từ chủ thể, động từ khách thể và động
từ hai hướng. Đóng góp quan trọng của tác giả là cố gắng tách bạch hai phương diện ngữ pháp và ngữ
nghĩa của động từ (để tập trung tìm hiểu, phân loại các động từ tiếng Việt từ phương diện ngữ nghĩa)
(tr.14-19).
Bên cạnh những công trình tiếp cận trực tiếp phạm t
rù NĐ/ NgĐ như vừa trình bày, hàng loạt
các chuyên luận và giáo trình ngữ pháp đại học cũng có đề cập tới vấn đề trên. Tuy nhiên các tác giả
thường không xem nó là trọng tâm nghiên cứu của mình.
Hoàng Trọng Phiến trong “Ngữ pháp tiếng Việt – Câu” (1980) viết: “Việc chia động từ thành NĐ
và NgĐ là căn cứ vào ngữ nghĩa thuần túy, do vậy không bao quát được cái sâu bên trong của từ loại”
[69, tr.137-138] và “đối với tiếng Việt việc chia thành nội động từ và ngoại động từ triệt để như tiếng
Nga ha
y một vài ngôn ngữ Ấn-Âu khác là không thích hợp” (tr.139). Ông cũng thấy được khó khăn
trong việc áp dụng tiêu chí hình thức để xác định BN trực tiếp: “Sự có mặt hay vắng mặt hư từ còn do
sự điều hòa âm hưởng, do âm luật cân đối cấu trúc quy định” (tr.139).
Trong công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt do UBKHXH (1983) thực hiện, các tác giả tuy
không hiển ngôn bà
n về NĐ/ NgĐ, nhưng đã đề cập khá chi tiết tới các phụ tố ‘khu vực sau’ động từ
[104, tr.121-146], các phụ tố ‘khu vực sau’ tính từ (tr.149-151). Đề cập tới thành phần này, các tác giả
nhấn mạnh đến sự đối lập giữa những phụ tố do chính tố yêu cầu riêng và phụ tố không do chính tố yêu
cầu riêng. Sự đối lập này chính là sự đối lập giữa diễn tố với chu tố; trong đó những phụ tố do chính tố
có yêu cầu riêng quan hệ mật thiết tới các thành phần BN trực tiếp, BN bắt buộc mà chúng tôi sẽ đề
cập nhiều c
hỗ trong các phần tiếp theo của luận án.
Cũng đứng trên quan điểm không chú trọng đối lập NĐ với NgĐ, Đinh Văn Đức cho rằng: “Đặt
vấn đề đối lập NĐ – NgĐ dưới ảnh hưởng đồng thời của nhiều nhân tố chỉ làm
cho vấn đề thêm phức
tạp hơn và khó có được một giải pháp nhất quán.” [25, tr.118]. Tác giả cũng lưu ý đến số lượng đáng
kể các động từ “lưỡng tính” (từ dùng của tác giả – chỉ những động từ vừa là NĐ vừa là NgĐ) tồn tại
trong tiếng Việt. Giải pháp của tác giả đối với vấn đề là: “[…] nếu thấy cần thiết trong khi miêu tả thì
cũng có thể nghĩ tới sự phân chia thành NĐ – N
gĐ nhưng ngay cả trong trường hợp đó cũng chỉ nên
nghĩ đến một ranh giới có tính ước lệ của hai tập hợp mờ có liên quan đến khái niệm BN và trạng ngữ:
BN là thành tố phụ giới hạn của một số động từ nhất định, còn trạng ngữ là thành tố phụ của động từ
nói chung. Lúc đó BN là tiêu chí của động từ NgĐ” (tr.118).
Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung trong giáo trình dành cho các trường đại học sư phạm
(1991) có bàn về động từ NĐ và NgĐ dựa trên sự đối lập [±thực từ đi kèm]. N
hững động từ không đòi
hỏi thực từ đi kèm (các động từ chỉ hành động cơ thể, trạng thái tâm lí) là những động từ NĐ. Những
động từ đòi hỏi thực từ đi kèm (các động từ biểu thị đối tượng tác động, đối tượng phát nhận, đối tượng
và nội dung sai khiến, v.v) là những động từ NgĐ. Cả NĐ và N
gĐ được các tác giả xếp chung vào
nhóm động từ độc lập và đối lập chúng với nhóm động từ không độc lập bao gồm các động từ thuộc
nhóm động từ tình thái, nhóm động từ chỉ quan hệ [6, tr.92-100]. Trong giáo trình tập 2 (1992), tác giả
Diệp Quan Ban đã tiếp tục đi sâu miêu tả các thành phần phụ đứng sau thành tố chính trong các cụm
động từ trên các phương diện c
hức năng cú pháp và từ loại [3, tr.83-94]. Nói chung, các tác giả không
xem sự đối lập NĐ/ NgĐ áp dụng cho toàn bộ động từ mà chỉ cho một bộ phận của động từ (nhóm
động từ độc lập) mà thôi.
Trong một chuyên khảo về cú pháp tiếng Việt, Hồ Lê (1994) đã đề cập tới vấn đề chuyển loại trong
đó có hiện tượng chuyển đổi tư cách cú
pháp của VT. Tác giả đã chú ý đến chiều hướng chuyển đổi đa
dạng của VT từ NĐ sang NgĐ, từ NgĐ sang NĐ cũng như một số VT chưa xác định được hướng chuyển
đổi. Ngữ liệu nêu ra và những phân tích của tác giả cho thấy rõ quan niệm của tác giả là dựa trên tư cách
hoạt động cú pháp của VT để xác định phạm trù NĐ/ NgĐ. Tác giả đã giải th
ích một cách thuyết phục về
một số VT NgĐ chuyển sang cách dùng NĐ (các VT chỉ hoạt động của cơ thể) [52, tr.252-253]. Tuy
nhiên, kiến giải của tác giả về một số VT “chưa xác định chiều chuyển loại” (chẳng hạn, VT chỉ sự di
chuyển: đi, chạy, nhích, kéo, rút, v.v.; những VT chỉ sự dàn xếp: dàn, sắp, xếp, đặt, v.v.) (tr.254) có khác
biệt với quan niệm mà luận án đề xuất.
Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1998), trong “Thành phần câu tiếng Việt” [98], đã
dành dung lượng khá lớn của công trình bàn về những vấn đề có liên quan thiết yếu tới phạm trù NĐ/
NgĐ – vấn đề thành phần khởi ngữ/ đề ngữ, vấn đề BN trực tiếp. Do đứng trên quan điểm xem BN trực
tiếp (cùng với chủ ngữ và vị ngữ) là thành phần chính của câu, các tác giả đã khảo sát khá chi tiết thành
phần này. Những kết quả khảo sát, phân tích của các tác giả có giá trị nhất định cho việc k
hảo sát phạm
trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt.
Một khuynh hướng đề cập khá nhiều tới phạm trù NĐ/ NgĐ là ngữ pháp chức năng. Với quan niệm
VT là hạt nhân trung tâm thông báo, là hạt nhân của khung vị ngữ, các tác giả đã chú ý nghiên cứu VT
trong quan hệ với các thành tố chức năng khác trong câu. Các tác giả sớm vận dụng lí thuyết về vai cách
trong nghiên cứu tiếng Việt là Nguyễn Đăng Liêm (1969, 1973, 1975), Donna Hà (1970), Trần Trọng
Hải (1971, 1972), Nguyễn Đình Hòa (1972, 1973), M. Clark (1976) (x. [128]). Trong chuyên luận “Các
phụ vị từ và Cách trong tiếng Việt” (Coverbs and Case in Vietnam
ese), M. Clark đã dành một phần đáng
kể để giới thiệu về lí thuyết khung cách, các quan hệ cách (tập trung ở các loại coverb – phụ VT). Rất
nhiều lần tác giả đã liên hệ, gắn chúng với phạm trù NĐ/ NgĐ. Điều này chứng tỏ vấn đề mà chúng tôi
sẽ đề cập trong luận án là các quan hệ nghĩa (và số lượng các vai nghĩa) trong câu đóng một vai trò quan
trọng trong việc xác lập
các đối lập giữa NĐ với NgĐ.
Một tác giả khác cũng cố gắng đi theo hướng này. Nguyễn Văn Lộc trong chuyên luận “Kết trị của
động từ tiếng Việt” (1995) đã giới thiệu, vận dụng những quan niệm về tham tố của L. Tesnière và một
số nhà ngôn ngữ học Nga để miêu tả về các loại diễn trị (ông dùng: kết trị) của động từ tiếng Việt. Sau
khi phân biệt các loại kết trị: kết trị hình thức và kết trị nội dung; kết trị bắt buộc và kết trị tự do, tác giả
giới th
iệu các loại kết trị bắt buộc của động từ và tập trung miêu tả kết tố chủ thể và kết tố đối thể. Trong
phần miêu tả về kết tố chủ thể, ông cũng đề cập tới kết tố chủ thể hoạt động nội hướng. Ông cho rằng:
“về nội dung, kết tố chủ thể hoạt động nội hướng chỉ kẻ thực hiện hành động hoặc kẻ mang trạng thái
không hướng tới đối thể. Sự vắng mặt của kết tố đối thể bên các động từ nội hướng là do ý nghĩa nội
hướng của chúng qui định” [55, tr.69]
. Ở đây, ông đã gián tiếp cho rằng tiêu chí phân biệt giữa NĐ và
NgĐ chính là tiêu chí cú pháp [±đối tố] và các dấu hiệu hình thức này được quy định bởi ý nghĩa của
động từ. Căn cứ vào những điều trình bày trong chuyên luận, chúng ta thấy tuy tác giả sử dụng hệ thống
khái niệm của ngữ pháp chức năng nhưng thực ra nội dung miêu tả vẫn theo hướng ngữ pháp truyền
thống. Các khái niệm chủ tố và kết tố cũng không khác nhiều so với chủ ngữ v
à BN (ở đây tác giả coi
BN trực tiếp và BN cho chủ ngữ – complement – đều là đối tố).
Cũng cùng thời gian này, Nguyễn Thị Quy hoàn thành chuyên luận “Vị từ hành động tiếng Việt và
các tham tố của nó” (1995). Như phần nào gợi ra từ tên gọi chuyên luận, tác giả đã vận dụng thành tựu
của ngữ pháp chức năng vào nghiên cứu VT tiếng Việt. Ngoài những tiêu ch
í về nghĩa, tác giả đã vận
dụng tiêu chí về tham tố (số lượng và đặc điểm) để phân loại và miêu tả VT tiếng Việt. Mỗi một tiêu chí
đem lại một kết quả riêng và những kết quả này cũng có nhiều điểm giao thoa (x. bảng tổng kết của tác
giả, tr.88). Chính ở hướng đi thứ hai (dựa vào diễn trị), tác g
iả đã thể hiện một cách tiếp cận mới về NĐ
và NgĐ. Theo tác giả, những VT một diễn tố ([–trực chuyển])
2
là NĐ còn các VT hai diễn tố, ba diễn tố
([+trực chuyển]) là những VT NgĐ [72, tr.88]. Mặc dù chỗ khác, tác giả thấy NgĐ là “VT có BN trực
2
Khái niệm trực chuyển gắn với loại VT trực chuyển của tác giả được dùng để chỉ những VT tác động và những VT không tác động
nhưng có mục tiêu [72, tr.84].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét