Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ chuyển phát nhanh của công ty TNT-Vietrans trên thị trường Việt Nam

Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
thuyết cạnh tranh trong trường phái cổ điển đã có những đóng góp nhất định trong
nhiều lý thuyết cạnh tranh hiện đại sau này.
Quan điểm cạnh tranh hiện đại được sử dụng phổ biến hiện nay do một số
giáo sư trường đại học Havard như Michael Porter, Jeffer Sharch và các chuyên gia
của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới) tham gia xây dựng. Theo quan điểm hiện đại,
“Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, người tiêu dùng)
nhằm giành lấy những vị thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng
hóa, thu được lợi ích nhiều nhất cho mình”. Đối với nhà sản xuất, mục tiêu của “sự
ganh đua” này là giành giật khách hàng, chiếm lĩnh thị trường, nắm được các điều
kiện sản xuất và khu vực thị trường có lợi nhất. Còn đối với người tiêu dùng, mục
tiêu của họ trong cuộc cạnh tranh là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi. Như thế, cuộc
cạnh tranh trên thị trường không giống như một cuộc chiến mà buộc phải có một
bên bị bại trận, các đối thủ cạnh tranh có thể cùng tồn tại và chia sẻ lợi ích, nếu một
doanh nghiệp không thể thỏa mãn nhu cầu của khách hàng tốt hơn các đối thủ khác
thì có thể phải rút lui khỏi thị trường một cách tự nguyện mà không phải do đối thủ
“cá lớn”làm phương hại.
Quan điểm hiện đại trên được đánh giá là có cách tiếp cận đúng đắn, được
nhiều doanh nghiệp, quốc gia sử dụng ngày nay. Cạnh tranh giữa các nhà sản xuất
là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất, bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia thị trường
đều phải chấp nhận đối mặt với cạnh tranh để tồn tại và thu lợi nhuận tối đa cho
mình. Cạnh tranh là quy luật kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh
Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung, đồng thời
đem lại nhiều lợi ích cho các chủ thể trong nền kinh tế - các đối tượng tham gia vào
cuộc cạnh tranh.
Xét trong tổng thể nền kinh tế, cạnh tranh thúc đẩy sản xuất phát triển, là
động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Quy luật cạnh tranh sẽ buộc các doanh
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
5
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
nghiệp có khả năng kinh doanh, tăng trưởng bền vững, thường xuyên cải tiến sản
phẩm, công nghệ sản xuất… mới có thể tồn tại. Cạnh tranh lành mạnh hướng doanh
nghiệp phải kết hợp một cách hợp lý lợi ích của mình với lợi ích của người tiêu
dùng và lợi ích cộng đồng. Toàn xã hội và nền kinh tế không ngừng được được đổi
mới và phát triển, đời sống người dân được nâng cao. Đối với người tiêu dùng, nhờ
có cạnh tranh, người tiêu dùng được sử dụng sản phẩm – dịch vụ ngày càng rẻ hơn,
chất lượng tốt hơn, đẹp hơn, hàm lượng tri thức và công nghệ cao hơn.
Nhà sản xuất muốn có vị thế cao trên thị trường buộc phải nhạy bén hơn,
nắm bắt ngày càng tốt hơn nhu cầu người tiêu dùng để tìm cách đáp ứng nhu cầu
khách hàng tốt hơn các đối thủ cạnh tranh bằng cách thường xuyên cải tiến kỹ
thuật, hoàn thiện tổ chức quản lý, nâng cao hiệu quả năng suất, chất lượng và hiệu
quả kinh tế… Nhà sản xuất cạnh tranh thành công sẽ thu hút được nhiều khách
hàng hơn và thu lợi nhuận ngày càng lớn hơn.
Nói chung, cạnh tranh có tác động tích cực trong đổi mới và phát triển
không ngừng doanh nghiệp, nền kinh tế, nâng cao vai trò và lợi ích của người tiêu
dùng.
1.1.3. Phân loại cạnh tranh
1.1.3.1. Phân loại căn cứ vào chủ thể kinh tế tham gia cạnh tranh
- Cạnh tranh giữa nhà sản xuất với nhau
Đây là loại cạnh tranh thường thấy trong nền kinh tế, trong đó các nhà sản
xuất tranh giành với nhau để chiếm thị phần và các ưu thế về thị trường. Cuộc cạnh
tranh này ảnh hưởng lớn nhất đến quy mô lợi nhuận của doanh nghiệp. Các nhà sản
xuất thường cạnh tranh thông qua các biện pháp như: chính sách giá cả, quảng cáo,
bán hàng…, trong đó biện pháp cạnh tranh qua giá làm giảm lợi nhuận của doanh
nghiệp nên ngày nay, các nhà kinh doanh thường kết hợp cạnh tranh qua giá đồng
thời với cạnh tranh bằng chất lượng và dịch vụ khách hàng. Đề tài phân tích dựa
trên giác độ cạnh tranh này.
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
6
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
- Cạnh tranh giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng
Hoạt động cạnh tranh này diễn ra do người sản xuất muốn bán hàng hóa với
giá cao, còn người tiêu dùng lại muốn được mua với giá thấp. Việc trao đổi được
diễn ra khi đạt được sự thỏa thuận giữa hai bên về giá cả và các điều kiện khác.
Trong điều kiện cạnh tranh, người tiêu dùng có lợi thế hơn trong mặc cả, do vậy
cuộc cạnh tranh này thường không mạnh mẽ và quyết liệt.
- Cạnh tranh giữa người tiêu dùng với nhau
Cuộc cạnh tranh này xảy ra khi một số người tiêu dùng cùng muốn mua một
loại hàng hóa khan hiếm hoặc cung hàng hóa thấp. Biểu hiện rõ nét của cuộc cạnh
tranh này là ở trong cuộc đấu giá, người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao, thậm chí
cao hơn mọi người tiêu dùng khác để có được hàng hóa mình muốn.
1.1.3.2. Phân loại căn cứ vào phạm vi ngành trong hoạt động cạnh tranh
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành
Đây là hoạt động cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng ngành, sản xuất
ra cùng loại hàng hóa – dịch vụ để đạt được khả năng tiêu thụ hàng hóa hiệu quả
hơn. Ví dụ về cạnh tranh trong nội bộ ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong ngành viễn thông với nhau như Viettel, VMS, HT Mobile…
- Cạnh tranh giữa các ngành
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong sản
xuất khác nhau để tìm nơi phân bổ vốn đầu tư có hiệu quả nhất. Cuộc cạnh tranh
này diễn ra phổ biến ở các ngành có “chi phí chung” – kinh doanh ở các lĩnh vực
khác nhau có khoản đầu tư công nghệ và nhân lực tương đương hoặc sử dụng khai
thác công nghệ hiện tại. Các nhà quản trị cần phân tích để xây dựng chiến lược
cạnh tranh dài hạn sao cho hoạt động đầu tư hiệu quả, đồng thời đối phó với sự
xâm nhập và cạnh tranh của doanh nghiệp ngành khác.
1.1.3.3. Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
7
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Căn cứ vào tính chất của hoạt động cạnh tranh có thể chia thành cạnh tranh
lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Hiện nay Việt Nam đã ban hành Luật
cạnh tranh để điều chỉnh và xử lý vi phạm của các hoạt động cạnh tranh không lành
mạnh, xâm phạm đến lợi ích của doanh nghiệp khác.
Cạnh tranh lành mạnh là cơ sở phát triển bền vững của doanh nghiệp trong
nền kinh tế, đòi hỏi phải có hệ thống quy định điều chỉnh chặt chẽ của Nhà nước,
quan trọng hơn cả là đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp tham gia cạnh tranh.
1.1.4. Các công cụ mà các doanh nghiệp thường sử dụng để cạnh tranh
trên thị trường
Các công cụ mà doanh nghiệp thường sử dụng trong cạnh tranh thường được
thiết kế dưới dạng các chính sách cạnh tranh. Các công cụ này tùy vào từng doanh
nghiệp cụ thể, từng thị trường mục tiêu, thời điểm, tình hình cạnh tranh trên thị
trường mà được sử dụng theo các phương thức khác nhau. Nhìn chung các doanh
nghiệp kinh doanh dịch vụ thường sử dụng 7 công cụ sau:
1.1.4.1. Chất lượng sản phẩm dịch vụ:
Khác với hàng hóa hữu hình, khách hàng mua dịch vụ bản chất là mua
những lợi ích, sự tiện lợi của dịch vụ mang lại. Có thể chia sản phẩm dịch vụ thành
hai bộ phận:
- Dịch vụ cốt lõi: là dịch vụ cơ bản, quyết định bản chất dịch vụ mà doanh
nghiệp cung cấp cho thị trường, gắn liền với quy trình cung ứng dịch vụ. Doanh
nghiệp cạnh tranh bằng sự khác biệt sản phẩm có thể thực hiện thông qua việc tạo
ra các sản phẩm dịch vụ khác nhau, thay đổi giá trị của sản phẩm cốt lõi.
- Dịch vụ bao quanh: tạo ra giá trị phụ thêm, giúp khách hàng có cảm nhận
tốt hơn về dịch vụ cốt lõi, thường chiếm khoảng 30% chi phí dịch vụ tổng thể
nhưng có thể gây 70% tác động nhận biết dịch vụ tới khách hàng. Để cạnh tranh,
các nhà kinh doanh cần quan tâm đến các dịch vụ bao quanh vì nó làm tăng giá trị
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
8
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
sản phẩm, tạo ra sự khác biệt và khả năng nhận biết dịch vụ của khách hàng, tạo ra
ưu thế cạnh tranh so với đối thủ.
Mọi lợi thế cạnh tranh của dịch vụ qua thời gian đều dần trở nên bị đồng
nhất bởi các sản phẩm tương tự của đối thủ, chính sách sản phẩm cần không ngừng
nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm.
1.1.4.2. Giá cả (phí dịch vụ):
Việc quyết định giá trong dịch vụ phụ thuộc nhu cầu về dịch vụ, chi phí thực
hiện dịch vụ và tình hình cạnh tranh trên thị trường.
Nhu cầu dịch vụ biến động liên tục, khó có thể xác định được quy mô dịch
vụ hợp lý để đáp ứng được nhu cầu tại mọi thời điểm, do đó cũng khó xác định giá,
đồng thời chi phí trong dịch vụ cũng khó xác định chính xác, cần nghiên cứu trong
thời gian dài. Do đó, trong tình hình cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp thường định
giá một phần dựa trên chi phí và một phần dựa trên giá cạnh tranh trên thị trường.
Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau hạ giá để duy trì khối lượng tiêu thụ, do đó
mà cuộc cạnh tranh về giá có quy mô ngày càng tăng lên.
1.1.4.3. Xúc tiến và quảng cáo:
Đặc điểm không hiện hữu của dịch vụ đem lại khó khăn trong xúc tiến và
quảng cáo, khi quảng cáo thường không quảng cáo trực tiếp vào dịch vụ mà tập
trung vào các dấu hiệu vật chất. Ví dụ như các hãng khách sạn thường quảng cáo
về tiêu chuẩn khách sạn, thiết bị trong các phòng nghỉ… Quảng cáo phải gây ấn
tượng, tạo hình ảnh đẹp trong khách hàng.
Phương tiện thường sử dụng trong quảng cáo là phương tiện thông tin đại
chúng, điện thoại, thư từ, truyền miệng… Trong dịch vụ, khách hàng thường tham
gia vào phân phối dịch vụ nên hình thức truyền miệng rất thích hợp: truyền miệng
trong giao tiếp giữa nhân viên cung ứng dịch vụ với khách hàng, trao đổi giữa
khách hàng với các khách hàng khác…
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
9
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
1.1.4.4. Mạng lưới phân phối:
Trong dịch vụ, thích hợp nhất là sử dụng kênh phân phối trực tiếp do mối
quan hệ giữa người cung ứng và người tiêu dùng trong kênh này đạt mức cao:
Hình 1.1: Kênh phân phối trực tiếp trong dịch vụ
Đối với các doanh nghiệp lớn, mạng lưới phân phối thường kết hợp phân
phối trực tiếp với gián tiếp, sử dụng nhiều tring gian phân phối để tăng sức phân
phối và tiếp cận với khách hàng, từ đó tăng khả năng cạnh tranh.
1.1.4.5. Quy trình dịch vụ
Quy trình dịch vụ gồm tập hợp các yếu tố, các khâu, bước có tác động tương
hỗ, quan hệ mật thiết với nhau trên cơ sở các quy chế, quy tắc, lịch trình, cơ chế
hoạt động, kết quả là tạo ra sản phẩm dịch vụ tổng thể và chuyển tới khách hàng.
Quy trình dịch vụ quyết định chi phí của doanh nghiệp, nếu có yếu tố trong quy
trình chưa hợp lý, quy trình dịch vụ chưa thông suốt sẽ làm tăng giá thành của sản
phẩm dịch vụ. Quy trình dịch vụ luôn có vị trí tiềm tàng ách tắc, không thông suốt
có thể ảnh hưởng đến chất lượng và uy tín dịch vụ, năng suất cung ứng dịch vụ. Do
vậy, để sử dụng công cụ này hiệu quả, doanh nghiệp phải liên tục cải tiến hoàn
thiện mô hình, tạo ra sản phẩm cốt lõi cho khách hàng.
1.1.4.6. Nguồn nhân lực:
Chiến lược con người đúng đắn có thể giúp doanh nghiệp cung ứng dịch vụ
thành công như mong đợi trong cạnh tranh bởi vì con người trong doanh nghiệp
dịch vụ là lực lượng trực tiếp tạo ra dịch vụ. Động lực làm việc của họ tạo ra uy tín
và sản lượng tiêu thụ cho doanh nghiệp, do đó chính sách về nguồn nhân lực là yếu
tố quan trọng quyết định đối với cạnh tranh trong điều kiện cạnh tranh gay gắt.
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
10
Người tiêu dùng
dịch vụ
DN cung ứng
dịch vụ
DV tại chỗ
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
1.1.4.7. Dịch vụ khách hàng:
Dịch vụ khách hàng là thành phần nằm trong dịch vụ bao quanh và là công
cụ được tạo ra giúp mở rộng phạm vi đạt tới mức thỏa mãn và tin cậy tối đa của
khách hàng. Dịch vụ khách hàng được xây dựng trên cơ sở nhu cầu ở mức cao của
khách hàng, làm gia tăng sự hài lòng trong quan hệ dài hạn với doanh nghiệp. Cạnh
tranh bằng dịch vụ khách hàng ngày càng trở nên phổ biến và trở thành vũ khí lợi
hại của các doanh nghiệp bởi vì dịch vụ khách hàng dễ tạo ra sự khác biệt sản phẩm
hơn là đổi mới sản phẩm cốt lõi, khách hàng cũng thường nhạy cảm hơn với vấn đề
này. Cạnh tranh bằng dịch vụ khách hàng dễ tạo ra nhận thức thiện cảm và tạo ra
khách hàng trung thành cho doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần sử dụng kết hợp các công cụ một cách thống nhất,
phát huy sức mạnh của từng công cụ phù hợp với năng lực của doanh nghiệp mới
có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững lâu dài.
1.2. KHÁI LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
CUNG CẤP DỊCH VỤ CHUYỂN PHÁT NHANH
1.2.1. Khái luận về năng lực cạnh tranh
1.2.1.1. Các quan điểm về năng lực cạnh tranh
Cũng như cạnh tranh, năng lực cạnh tranh là một khái niệm chưa có sự
thống nhất, nó được áp dụng với tất cả cấp vĩ mô (năng lực cạnh tranh quốc gia,
khu vực) và cấp vi mô (năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, sản phẩm). Ngay
trong khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đã có nhiều quan niệm khác
nhau:
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với ưu thế của sản phẩm mà
doanh nghiệp đưa ra trên thị trường;
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với thị phần mà nó nắm giữ;
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn với hiệu quả kinh doanh;
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
11
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Các khái niệm này chưa phản ánh được vị thế lâu dài, đồng thời mới là
biểu hiện bề ngoài của năng lực cạnh tranh, còn vấn đề về tài chính, nhân lực, công
nghệ, trách nhiệm xã hội… tạo ra năng lực cạnh tranh chưa được đề cập tới.
1.2.1.2. Khái niệm và bản chất năng lực cạnh tranh
1. Năng lực cạnh tranh quốc gia: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) đã đưa
ra khái niệm: “Năng lực cạnh tranh quốc gia là một hệ thống các thể chế, chính
sách, quy định tạo nên mức sản lượng của một quốc gia. Nói cách khác, một nền
kinh tế cạnh tranh thì có xu hướng có thể đem tới mức thu nhập cao hơn cho các
công dân của mình, tỷ lệ tái đầu tư lớn hơn và do đó có thể phát triển nhanh hơn
trong tương lai trung và dài hạn”. Năng lực cạnh tranh quốc gia được cấu thành từ
nhiều yếu tố như thể chế chính sách, cơ sở hạ tầng, nền kinh tế vĩ mô, giáo dục và
đào tạo mức cao…
2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp là việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài, nhằm tạo
ra những sản phẩm dịch vụ hấp dẫn với người tiêu dùng để tồn tại và phát triển, thu
được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh. Bản
chất của năng lực cạnh tranh trước hết phải xuất phát từ thực lực của doanh nghiệp
trong điều kiện môi trường cụ thể.
Năng lực cạnh tranh của một ngành được đánh giá dựa trên năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp và các sản phẩm chủ lực của ngành trên thị trường.
3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm: Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là
lợi thế, ưu việt của sản phẩm mà doanh nghiệp cung ứng so với đối thủ cạnh tranh
trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để chiếm thị phần và lợi
nhuận ngày càng cao hơn.
Năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp, ngành có mối quan hệ
ảnh hưởng và phụ thuộc lẫn nhau. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cao sẽ tác
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
12
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
động tích cực đến năng lực cạnh tranh của ngành, quốc gia và ngược lại, đồng thời
chịu ảnh hưởng tích cực hoặc hạn chế của năng lực cạnh tranh quốc gia, ngành
1.2.2. Những đặc điểm của dịch vụ chuyển phát nhanh ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ
1.2.2.1 Khái niệm dịch vụ chuyển phát nhanh
Để có cách hiểu đầy đủ về dịch vụ chuyển phát nhanh, chúng ta tìm hiểu
như thế nào là dịch vụ: Dịch vụ là một hoạt động hay lợi ích cung ứng nhằm để trao
đổi, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu.
Dịch vụ chuyển phát nhanh hàng hóa là loại hình dịch vụ nhận gửi, chuyển
và phát các loại thư, tài liệu, vật phẩm, hàng hóa theo chỉ tiêu thời gian được công
bố trước. Còn theo khái niệm của WTO, dịch vụ chuyển phát nhanh là dịch vụ gồm
thu gom, chia chọn, vận chuyển và phát trong nước hoặc quốc tế các thông tin dưới
dạng văn bản, kiện hàng và các hàng hóa khác, có tốc độ xử lý nhanh hơn và độ tin
cậy cao hơn, có thể bao gồm các yếu tố gia tăng giá trị như thu gom tận tay người
gửi, phát tận tay người nhận, truy tìm và định vị, khả năng thay đổi nơi nhận và địa
chỉ nhận trong khi đang vận chuyển, báo phát.
1.2.2.2. Những đặc điểm của sản phẩm dịch vụ nói chung
- Cũng như các dịch vụ khác, dịch vụ chuyển phát nhanh có tính vô hình,
nó không tồn tại dưới dạng vật thể, không thấy được, không sờ được, khó mô tả
chính xác đặc tính và chất lượng như hàng hóa hữu hình. Do đó mà khách hàng khó
đánh giá được chất lượng dịch vụ trước khi sử dụng nó. Vì vậy uy tín là rất quan
trọng, là một sự đảm bảo tương đối cho chất lượng của dịch vụ, khách hàng muốn
sử dụng dịch vụ chất lượng tốt sẽ tìm đến nhà cung ứng theo họ là có uy tín. Uy tín
tốt sẽ là lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
13
Website: http://www.docs.vn Email : lienhe@docs.vn Tel : 0918.775.368
Do tính vô hình nên việc quảng cáo sản phẩm đến với khách hàng phải
thông qua các thông tin liên quan, quảng cáo thông qua các biểu hiện hữu hình của
nó như là cơ sở vật chất, quy mô dịch vụ, phạm vi địa lý cung ứng…
- Dịch vụ chuyển phát nhanh không lưu kho. Trong quá trình sản xuất, lưu
lượng hàng hóa chuyển không đồng đều trong ngày, trong tháng, có lúc khách hàng
quá đông, có lúc lại quá thưa thớt. Dịch vụ chuyển phát nhanh không thể tích trữ,
chuyển phát từ trước nếu không có khách hàng và hàng hóa của họ. Đặc điểm này
làm phức tạp hóa quá trình quản lý cung ứng dịch vụ, khả năng linh hoạt điều chỉnh
với những biến động của nhu cầu sẽ giúp doanh nghiệp cạnh tranh tốt hơn trong
ngành dịch vụ chuyển phát nhanh.
- Việc sản xuất dịch vụ chuyển phát nhanh diễn ra đồng thời với tiêu dùng
dịch vụ. Do vậy, việc phân bổ mạng lưới cung ứng phải rộng để có thể tiếp cận với
điểm đến của mọi khách hàng. Mạng lưới chuyển phát càng rộng, sự có mặt của
doanh nghiệp ở càng nhiều nơi càng đem lại khả năng cung ứng dịch vụ cao, khả
năng cạnh tranh cao cho doanh nghiệp.
Do sản xuất đến đâu bán đến đó nên người bán hàng phải có nhiều kiến
thức và kỹ năng để tránh tối đa những sai sót khi thực hiện cả hai chức năng này,
đồng thời phải có thái độ và tinh thần phục vụ tốt mới có thể thỏa mãn cao những
nhu cầu của khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Dịch vụ chuyển phát nhanh khó tiêu chuẩn hóa và khó định giá. Dịch vụ
chuyển phát nhanh không thể sản xuất đồng loạt để dự trữ và thiếu sự đồng đều về
chất lượng. Chất lượng dịch vụ còn phụ thuộc vào người bán hàng, đồng thời chất
lượng dịch vụ chuyển phát nhanh không chỉ bao gồm việc tuân thủ các đặc tính,
quy định của sản phẩm mà còn tuân thủ các yêu cầu do người sử dụng dịch vụ đặt
ra. Như vậy vấn đề mấu chốt quyết định khả năng cạnh tranh của công ty là ở việc
bảo đảm chất lượng của dịch vụ và chất lượng phục vụ đối với khách hàng.
1.2.2.3. Những đặc điểm riêng có của dịch vụ chuyển phát nhanh
Vũ Thị Lan Anh Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét